Một quyển sách
đã truyền cảm hứng cho hơn 350 triệu người
thoái xuất khỏi Đảng Cộng Sản Trung Quốc

Chương 5: Biểu hiện thường thấy của văn hóa đảng trong tuyên truyền (phần hạ)(audio)


Ảnh: Epoch Times

Mục lục:

3. Phải nghe lời đảng, đi theo đảng

1) Thủ đoạn tuyên truyền hai mặt

2) Nghe lời đảng mang lại cho người dân điều gì

3) Một số hình thức đi theo đảng

4. Đảng bảo sao thì làm vậy

1) Đảng bắt người ta làm những gì

2) Các “Công cụ phục tùng” phục vụ cho mục đích gì

3) Biểu hiện ngày nay của “đảng bảo sao thì làm vậy”

4) Hậu quả tất yếu phải chịu

========

3. Phải nghe lời đảng, đi theo đảng

Trong tuyên truyền, Trung Cộng không chỉ muốn người ta tin rằng “không có đảng Cộng Sản thì không có nước Trung Quốc mới”, khiến họ vô cùng “biết ơn” đảng; cũng không chỉ muốn người ta phải coi đảng như người thân thiết nhất, khiến họ tràn đầy “tình thân” với đảng; nó còn muốn biến người dân thành công cụ phục tùng, khiến họ nhất cử nhất động phải nghe theo nó, đi theo nó, phục vụ cho mục tiêu chính trị của nó.

1) Thủ đoạn tuyên truyền hai mặt

Để đạt được mục đích khiến người dân phải “nghe lời đảng, đi theo đảng”, Trung Cộng đã dùng thủ đoạn vừa đóng vai phản diện vừa đóng vai chính diện. Trong thời kỳ vận động chính trị nó đóng vai phản diện, còn bình thường nó đóng vai chính diện. Vai phản diện chính là phê bình, đả kích đối với những người có tư tưởng độc lập, sau đó chuyển thành bài học giáo huấn về phản diện để “giáo dục” dân chúng, khiến họ vì quá sợ hãi mà không thể không đi theo đảng. Mỗi cuộc vận động chính trị, vận động chỉnh phong của Trung Cộng đều là những cuộc thanh trừng tàn khốc những người không trung thành với nó, đồng thời nó không ngừng gia tăng cảm giác khủng bố của người dân, khiến người dân phải luôn ghi tâm khắc cốt rằng: không nghe lời đảng, không đi theo đảng, thì sẽ không được yên ổn. Trong định nghĩa của Trung Cộng, chỉ có người biết nghe lời đảng, đồng lòng nhất trí với đảng, thì mới thuộc về “nhân dân”, thuộc về nhóm đa số ủng hộ đảng. Nếu không sẽ thuộc về “phần tử lạc hậu” bị phê phán, thậm chí thuộc về “nhóm thiểu số” bị đả kích. Suốt hai mươi mấy năm nay, Trung Cộng luôn phê phán cái gọi là “tự do hóa của giai cấp tư sản”, cũng là vì nó không thể chịu được tư tưởng độc lập và lựa chọn tự do của người dân, bởi điều đó ắt sẽ dẫn đến việc người dân có thể “không nghe lời đảng, không đi theo đảng”.

Mặt khác, Trung Cộng cũng rất giỏi đóng vai chính diện, nó làm cái gọi là “tuyên truyền chính diện”. “Nghe lời đảng, đi theo đảng” trở thành nội dung tuyên truyền chủ đạo ở khắp mọi nơi, từ việc tâng bốc thủ lĩnh đảng, vận động thần thánh hóa đảng; tâng bốc sự lãnh đạo, phương châm chính sách và cái gọi là “thành tích” của Trung Cộng; đến việc “giáo dục đảng tính”, dựng nên những tấm gương điển hình, khuôn mẫu v.v.

Tâng bốc thủ lĩnh đảng chính là để thần thánh hóa đảng, mục đích căn bản nhất là để duy trì sự thống trị của Trung Cộng, lôi kéo người ta nghe lời đảng, đi theo đảng. Mao được tâng bốc thành “vị lãnh tụ vĩ đại, người thầy vĩ đại, thống soái vĩ đại, người lãnh đạo vĩ đại”, “một câu hơn cả vạn câu, mỗi câu đều là chân lý”, người dân tất nhiên chỉ cần nghe lời là được. Thời đó, mỗi người đều có một quyển sách “Hồng bảo thư”, ai ai cũng phải nghe lời “Mao chủ tịch”, trở thành người chiến sĩ giỏi của “Mao chủ tịch”. Cho dù Mao đã phạm nhiều lỗi lầm nghiêm trọng, trực tiếp gây ra nạn đói lớn nhất trong lịch sử nhân loại vào cuối thập niên 50 đầu thập niên 60, đại hội tổng kết năm 1962 của Trung Cộng vẫn khoác lác không biết ngượng rằng: “Trong thời gian khó khăn, chúng ta càng phải dựa dẫm và tin tưởng vào sự lãnh đạo của đảng, sự lãnh đạo của trung ương, sự lãnh đạo của Mao chủ tịch”. “Có như vậy, chúng ta mới càng dễ khắc phục khó khăn…” Sau Mao còn có “chủ tịch Hoa Quốc Phong – lãnh tụ anh minh”, sau đó là “tổng công trình sư” Đặng Tiểu Bình, đến cả Giang Trạch Dân cũng được tâng bốc là “người dẫn đường kế thừa quá khứ mở ra tương lai”. Sau sự ra đời của thuyết “Tam đại biểu”, bộ trưởng Bộ Tuyên truyền kêu gọi “phải cố gắng hết sức để thấm nhuần tư tưởng quan trọng của “thuyết tam đại biểu vào người dân, trở thành kim chỉ nam hành động cho quảng đại cán bộ quần chúng, trở thành kim chỉ nam căn bản cho các công việc của chúng ta”. Thế nên ở một vài vùng nông thôn, trên các bức tường đột nhiên xuất hiện các biểu ngữ lớn “Dùng thuyết tam đại biểu để chỉ đạo công việc giết mổ của chúng ta”.


Ảnh: Epoch Times

“Nghe lời đảng, đi theo đảng” còn bị cố định bằng hình thức “pháp luật”. Hiến pháp vốn là pháp luật căn bản của một quốc gia, nhưng Trung Cộng lại đưa thêm câu “giữ vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản” vào trong đó, yêu cầu người ta khi “tham gia và thảo luận chính trị” nhất thiết không được động tới sự lãnh đạo của đảng.

Ngoài ra, mỗi đại hội lớn của Trung Cộng đều được tuyên truyền thành “đại hội đoàn kết”, “đại hội thắng lợi”. Mỗi hội nghị của Trung Cộng người ta đều nêu cao tinh thần “lĩnh hội sâu sắc”, “chăm chỉ học tập”, “quán triệt thực thi”, từ đó có thể “nghe lời đảng, đi theo đảng” tốt hơn. Đồng thời, Trung Cộng còn định kỳ thực hiện cái gọi là giáo dục “đảng tính”, cưỡng ép đảng viên học tập các loại văn kiện của Đảng, viết báo cáo tư tưởng, để đảm bảo tư tưởng của người ta phải nhất trí với Đảng. “Tư tưởng đúng đắn, kiên quyết phục tùng sự lãnh đạo của Đảng”, câu này đã trở thành ngôn từ điển hình trong báo cáo của Đảng.


Ảnh: Epoch Times

Ngoài thần thánh hóa bản thân, Trung Cộng còn liên tục xây dựng nên các gương điển hình, nó tuyên truyền rằng “nghe lời đảng, đi theo đảng” có thể đưa đến thắng lợi cách mạng, cải thiện đời sống nhân dân, v.v.. nhằm tô vẽ cho bộ mặt của nó, lừa gạt để lấy được lòng tin của người dân. Như nhân vật điển hình Lôi Phong được Trung Cộng hết lời ca ngợi, cuối cùng còn nhấn mạnh rằng anh ta “kiên trì nghe lời đảng, suốt đời đi theo đảng”. Đảng hô hào làm nông nghiệp trên quy mô lớn, Lôi Phong liền chủ động xin làm nông dân; đảng hô hào cần tăng cường sản xuất công nghiệp, anh ta lập tức bỏ nhà đi làm công nhân; đảng hô hào thanh niên gia nhập quân đội, anh ta lại nhập ngũ. Lâm Bưu đề tặng anh ta: “Đọc sách của Mao chủ tịch, nghe lời của Mao chủ tịch, làm theo chỉ thị của Mao chủ tịch, trở thành người chiến sĩ giỏi của Mao chủ tịch”. Tuyên truyền ca ngợi Lôi Phong, học theo tấm gương Lôi Phong, cũng có nghĩa là yêu cầu người ta phải nghe lời đảng, đi theo đảng giống như anh ta. Khi dựng nên các tấm gương điển hình như Tiêu Dụ Lộc, Khổng Phồn Sâm, Trung Cộng cũng không quên đề cập đến “tư tưởng chủ đạo” “nghe lời đảng, đi theo đảng”. Khi Tiêu Dụ Lộc biết bản thân bị bệnh nặng, anh ta nhắn nhủ với vợ rằng: “Em phải mãi mãi nghe lời đảng, sống và học tập theo Mao chủ tịch, công tác tốt, giáo dục con cái trở thành những người kế tục cho cách mạng”.

Các hình thức văn nghệ của Trung Cộng cũng nhồi nhét vào đầu người dân chủ đề “nghe lời đảng, đi theo đảng”. Trong bộ phim “Ngôi sao đỏ lấp lánh” có nhắc đến: “Trọng trách cách mạng đặt trên vai, lời giáo huấn của đảng khắc ghi trong tim, cách mạng đời đời nối tiếp như nước thủy triều, trước sau một lòng đi theo đảng; trong “Chiến trường địa đạo” viết: “Lời của chủ tịch khắc ghi trong tim, sợ gì kẻ thù điên cuồng”; trong “Kênh Sa Gia”, nhân vật anh hùng Quách Kiến Quang hát rằng: “Mao chủ tịch và Trung ương đảng chỉ đường dẫn lối cho chúng tôi trong trận chiến đấu tại Thủy Hương”; “Hải cảng” lại có câu “Kiên định nghe lời Đảng dũng mãnh tiến bước”.

Có thể có người cho rằng câu khẩu hiệu tuyên truyền “nghe lời đảng, đi theo đảng” đã là chuyện xưa rồi. Kỳ thực không phải vậy. Những kiểu vận động thần thánh hóa, học tập chính trị, hay là giáo dục đảng tính, nêu gương điển hình vẫn là hiện tượng thường thấy trong cuộc sống hiện đại ngày nay. Từ thuyết “Tam đại biểu” đến “bát vinh bát nhục”, từ lời thề hiến thân của đảng viên dưới cờ, đến thái độ chính trị thể hiện sự “kiên trì giữ vững sự lãnh đạo của đảng”, “phục tùng mệnh lệnh của đảng”… của các quan chức quân đội, lính biên phòng, công nhân, nông dân, học sinh, trí thức đều đầy rẫy nội dung “nghe lời đảng, đi theo đảng”. Khi tìm kiếm trên mạng từ khóa “kiên trì sự lãnh đạo của đảng”, thật ngạc nhiên là có hơn 10 triệu tin liên quan (trong khi từ khóa “Khổng Tử” cũng chỉ không quá 6 triệu tin mà thôi); tra từ khóa “mãi mãi đi theo đảng” cũng có thể thấy hơn 3 triệu tin liên quan.

Sau sự kiện Lục Tứ ngày 04 tháng 06 Trung Cộng nổ súng tàn sát người dân, “Trận phong ba chính trị diễn ra vào cuối xuân đầu hè năm 1989 khiến tôi càng nhận thức thanh tỉnh rằng phải kiên trì nghe lời đảng, đi theo đảng …” những câu như vậy tràn ngập trên các loại hình tuyên truyền, những câu này sau đó trở thành chuẩn mực được người ta viết trong các báo cáo tư tưởng. Năm 1999 Trung Cộng bức hại Pháp Luân Công, nó lại dấy lên các hoạt động biểu thị thái độ chính trị như “phê phán vạch trần”, “triệu dân ký tên” v.v.. Những người không hề hiểu gì về Pháp Luân Công cũng bị Trung Cộng dựng thành những điển hình để tuyên truyền: các cụ già đáng kính nói nào là: “Mấy người chúng tôi đều đã trên 60 tuổi, không tin Thần Phật, không tin tôn giáo, chỉ đi theo đảng”; các chiến sỹ viết thư về nhà: “Kiên quyết ủng hộ quyết định của trung ương, phải đoạn tuyệt hoàn toàn đối với Pháp Luân Công”… đó đều là những thủ đoạn quen thuộc trong tuyên truyền chính trị của Trung Cộng.

Đến nay, “mãi mãi đi theo đảng” vẫn là “chủ đề giáo dục” của Trung Cộng, nó đầu độc thế hệ tiếp theo bằng những cái gọi là hoạt động đọc sách, đọc báo, chiếu phim đề tài cách mạng, “lắng nghe các bài ca cách mạng”, hoạt động tuyên truyền học tập “Tam đại biểu” cho học sinh trung học cơ sở, phổ thông, tổ chức các cuộc luận đàm theo chủ đề v.v.. Năm 2006, kỷ niệm 50 năm ngày Trung Cộng thành lập đảng, Đài Truyền hình Trung ương thực hiện các chương trình chuyên đề văn nghệ “Mãi mãi đi theo đảng”, từ các cơ quan, trường học, bệnh viện đến xóm làng, đường phố, đâu đâu cũng rập khuôn theo, các chương trình biểu diễn tương tự cũng ồ ạt lên sân khấu.

Ngày nay, càng ngày càng có nhiều người không còn tin vào Đảng Cộng sản nữa, nhưng Trung Cộng vẫn tưởng là ai cũng dốc lòng theo mình mà tuyên truyền khắp nơi khẩu hiệu “Khi nào trong tâm còn kiên trì sự lãnh đạo của đảng, thì sự nghiệp của đảng và nhân dân mới phát triển thuận lợi, khi nào vị trí lãnh đạo của đảng suy yếu trong tâm, thì sự nghiệp của đảng và của nhân dân sẽ thất bại”, nó lại còn khẳng định chắc chắn rằng “Cách mạng Trung Quốc và lịch sử dựng nước đã chứng minh điều đó”. Quả là dục vọng của Trung Cộng muốn người ta phải “nghe lời đảng, đi theo đảng” đã đến mức “tẩu hỏa nhập ma” mất rồi.

2) Nghe lời đảng mang lại cho người dân điều gì

Trải qua nhiều cuộc vận động và tuyên truyền chính trị, người Trung Quốc ngày nay đã sinh ra một tâm lý sợ hãi bản năng đối với Trung Cộng, họ quen với việc nghe lời đảng, đi theo đảng, rất nhiều người còn khuyên bảo người khác rằng “đối nghịch với đảng thì nhất định sẽ không có kết cục tốt đẹp”. Vậy thì rốt cuộc “nghe lời đảng, đi theo đảng” mang lại điều gì cho nhân dân?

Nghe lời đảng khiến cho người dân mất đi quyền suy nghĩ độc lập, hơn một tỷ người Trung Quốc mà chỉ có một “trí óc của đảng”. Đảng nói sao thì là vậy, đảng quyết định thế nào thì chấp hành như thế. Tinh thần suy nghĩ độc lập là điều kiện quan trọng cho sự phát triển thịnh vượng của một dân tộc, một dân tộc mà chỉ biết “nghe lời đảng” thì có thể tiến được bao xa?

Vấn đề càng nguy hiểm hơn là, Trung Cộng không phải là một chính đảng theo nghĩa thông thường, Trung Cộng là một tập đoàn tà giáo hắc ám lấy đấu tranh làm thú vui, lấy “đấu với Trời, đấu với Đất” và giết người làm trò tiêu khiển. Nó căn bản không có bất cứ nguyên tắc nào, không có bất cứ giới hạn đạo đức nào, thay đổi chóng mặt, mỗi lúc một kiểu. Trong các cuộc bức hại chính trị có tính chu kỳ của Trung Cộng, ngay cả người trung thành nhất với nó cũng không tránh khỏi tai họa.


Ảnh: Epoch Times

Lưu Thiếu Kỳ là nhân vật đứng thứ hai trong số bảy người đứng đầu Trung Cộng, ông ta là người đầu tiên phát ngôn ra từ “tư tưởng Mao Trạch Đông” ở Diên An, là trợ thủ quan trọng giúp Mao Trạch Đông tiêu diệt những kẻ thù chính trị trong thập niên 40, là chủ tịch nước khi diễn ra cuộc Cách mạng Văn hóa. Nhưng trong Cách mạng Văn hóa, ông ta đã bị kết tội “phản bội, nội gián, phản bội giai cấp công nhân”, ông đã chết bi thảm sau ba năm bị bức hại thương tâm, lúc chết cơ thể đã không còn hình người, mái tóc bạc rối bù dài đến 2 thước.


Ảnh: Epoch Times

Năm 1955, “10 đại nguyên soái” được Trung Cộng phong quân hàm, ngoại trừ Chu Đức tuổi cao nên sau năm 1949 đã không còn quan tâm đến chính sự, nhờ thế mà được an toàn trong các cuộc đấu tranh chính trị, và La Vinh Hoàn mất sớm ra, tám vị còn lại đều không ai may mắn thoát khỏi các cuộc đấu tranh chính trị. Bành Đức Hoài bị coi là thủ lĩnh “tập đoàn quân sự phản cách mạng”, sau khi phát động cuộc Cách mạng Văn hóa đến giữa năm 1971, ông ta đã phải chịu hơn 200 lần bị phê bình, sau khi chết, trên lọ đựng tro cốt của ông chỉ viết ba chữ “Vương Xuyên, nam”; Trần Nghị, Từ Hướng Tiền, Nhiếp Vinh Trăn, Diệp Kiếm Anh bị lên án là kẻ âm mưu “hai tháng binh biến”; Hạ Long bị chặt đầu; Lâm Bưu chính biến không thành, lên máy bay bỏ trốn, nhưng chết do máy bay bị rơi ở Mông Cổ, sau khi chết còn bị phê phán nặng nề.

Thời đầu Cách mạng Văn hóa, “các tiểu tướng hồng vệ binh” là những người đã thực hiện “cách mạng” triệt để nhất, nhưng hai năm sau họ cũng không còn giá trị để lợi dụng, bị lừa đi “vùng sâu vùng xa để tầng lớp trung nông cải tạo”.

“Tóm tắt về công trình 571” của Lâm Bưu có đoạn viết: “Phần tử thanh niên trí thức đi lên vùng sâu vùng xa chính là hình thức cải tạo lao động biến tướng”.


Ảnh: Epoch Times

Trong các cuộc vận động chính trị liên tiếp, những nhóm người bị Trung Cộng bức hại tàn bạo có ai thực sự “phản bội đảng” không?

Trong cuộc phản cánh hữu năm 1957, trong số những phần tử trí thức bị phê bình, bị lưu đày, rất nhiều người là những văn nhân cánh tả vào trước thời kỳ Trung Cộng giành chính quyền, rất nhiều người đã đồng tình, ủng hộ Trung Cộng, thậm chí đã bỏ biết bao mồ hôi nước mắt để giúp Trung Cộng được lên nắm quyền. Thật cay đắng là những người năm đó đã mang hy vọng vô hạn vào Đảng Cộng sản, những người khi ở khu vực quản lý của Quốc Dân đảng đã từng mạo hiểm xông pha hô hào ủng hộ nhiều nhất cho Đảng Cộng sản, thì đến năm 1957 họ lại chính là những người đầu tiên không may bị liệt vào phần tử cánh hữu, mà những người càng bỏ nhiều công sức thì càng chịu bức hại nặng nề.

Những người theo Đảng Dân chủ như Chương Nãi Khí, Chương Bá Quân, La Long Cơ, Trữ An Bình, Vương Tạo Thời, nhà giáo dục Tương Nam Tường, Giang Long Cơ, nhà văn Ba Kim, Ngải Thanh, Điền Hán, Đinh Linh, Triệu Thụ Lý, La Nghiễm Bân, Khang Trạc, Dương Mạt, học giả Dương Hiến Trân, Tiễn Bá Tán, Lữ Chấn Vũ, Lương Tư Thành, Mã Liên Lương, Hề Khiếu Bá, Chu Tín Phương, Thượng Tiểu Vân, Nghiêm Phượng Anh v.v.. đều phải chịu bức hại. Những người này đã là đảng viên hoặc đã qua cải tạo tư tưởng, đã tuyên thệ trung thành với Đảng Cộng sản, cũng đã có những đóng góp to lớn cho sự thành lập chính quyền của Trung Cộng, nhưng họ vẫn bị bức hại đến chết, đến tàn tật, chỉ có rất ít người may mắn sống sót, song thể xác và tinh thần đều chịu thương tích không thể phục hồi.

Tháng 11 năm 1956, Bộ Văn hóa và Hội liên hiệp Kịch Trung Quốc đã tổ chức “lễ kỷ niệm 60 năm sự nghiệp Cái Khiếu Thiên” ở Thượng Hải. Điền Hán đại diện cho Bộ Văn hóa trao tặng giải thưởng danh dự cho Cái Khiếu Thiên, và đã phát biểu bài “học tập nghệ thuật biểu diễn trác tuyệt của nhà nghệ thuật Cái Khiếu Thiên”. Cái Khiếu Thiên đã cảm động nói: “Người sinh ra tôi là cha mẹ, nhưng người hiểu tôi là Đảng Cộng sản!” Năm 1966, Cách mạng Văn hóa bùng phát, Cái Khiếu Thiên bị đám đông hung bạo lôi đi bêu đầu ngoài đường, đầu tiên bị đánh gãy chân, rồi bị ném vào thùng phân tiếp tục đi bêu đầu. Cái Khiếu Thiên lúc đó đã ngoài 60 tuổi không thể chịu được sự nhục nhã, mấy lần cố leo ra khỏi xe chở phân, lần nào cũng bị đám quần chúng điên cuồng hất trở lại. Vị vũ sư nổi tiếng khắp Nam Bắc ấy đã bị tra tấn như vậy đến chết giữa thanh thiên bạch nhật.

Nhà văn Lão Xá phục tùng đảng về chính trị, luôn giữ tư thái là theo sát đảng, sau năm 1949, ông ta sáng tác một loạt tác phẩm như “Râu rồng”, “Xuân hoa thu thực”, “Đội xung kích thanh niên”, “Hồng đại viện” và “Một gia đình đại biểu” ca ngợi công lao của chính quyền Trung Cộng. Ngày 23 tháng 08 năm 1966, Lão Xá lúc đó là Chủ tịch Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật đã bị hồng vệ binh bắt giữ, cùng với nhà văn Tiêu Quân, Lạc Tân Cơ, nghệ thuật gia Tuần Huệ Sinh v.v.. Bọn họ đều bị cạo trọc đầu, bắt đeo nhãn hiệu “phần tử xấu”, “phản động”, “đầu trâu mặt ngựa”, bị đổ mực lên đầu. Hồng vệ binh cưỡng ép họ quỳ xung quanh đống lửa đốt các đồ hóa trang, sách vở của họ, chịu lễ rửa tội bằng “ngọn lửa cách mạng”, chúng dùng đạo cụ và dây da bọc đồng để đánh họ. Riêng Lão Xá bị Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật thành phố đưa về, nhưng chờ đợi ông lại là một trận đánh đập tàn nhẫn khác. Lão Xá hét lớn rằng mình yêu đảng, yêu chủ nghĩa xã hội, đổi lại là những trận đánh càng điên cuồng hơn. Ngày hôm sau, Lão Xá tự trầm mình ở hồ Thái Bình.

Những khẩu hiệu “chống tham nhũng”, “chống mua quan bán chức” trong phong trào học sinh năm 1989 hoàn toàn mang thái độ hợp tác và khuyên nhủ đối với chính quyền. Học sinh và dân chúng đã đồng lòng kiên trì theo nguyên tắc “hòa bình, lý trí, phi bạo lực”, thậm chí thủ lĩnh đại diện cho học sinh còn quỳ rất lâu trước Đại lễ đường Nhân dân khi gửi đơn thỉnh nguyện. Ngày 23 tháng 05, đội duy trì trật tự học sinh còn đưa ba đối tượng đã phá tượng Mao tại quảng trường Thiên An Môn đến giao nộp cho cảnh sát. 10 ngày sau, quân đội Trung Cộng vẫn đàn áp đẫm máu ở Thiên An Môn.

Trong thời gian Đảng Cộng sản biểu diễn trò hề này, có hai sự kiện nhỏ có ý nghĩa rất sâu sắc.

Trong cuộc vận động phản cánh hữu, để tự cứu mình, các phần tử trí thức đã gắng sức biểu hiện bản thân rất “tích cực”, “có tinh thần cách mạng”, “luôn dựa vào đảng”, nhưng đảng đã đặt ra chỉ tiêu, dù họ biểu hiện tốt thế nào cũng không giải quyết được vấn đề. Ngày 11 tháng 10 năm 1957, Đại hội Trung ương Đoàn Thanh niên Bắc Kinh tổ chức phê bình hội nhà văn thanh niên, một nhà văn đứng lên đọc một bài phê phán rất gay gắt. Khi anh ta chuẩn bị đi xuống, khi cả hội trường đang vỗ tay nhiệt liệt, bí thư Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Bắc Kinh đột nhiên lớn tiếng tuyên bố: “Các đồng chí, đừng có cổ vũ cho hắn ta, đừng có bị những lời dối trá của hắn ta lừa gạt, hắn ta cũng bị xếp vào phần tử cánh hữu đấy!”

Ngày 05 tháng 08 năm 1967, sau khi Lưu Thiếu Kỳ bị đấu tố và bị áp giải về văn phòng, ông ta cầm theo quyển Hiến pháp nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, phản kháng lại nói: “Tôi là Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa, các anh đối đãi với cá nhân tôi thế nào không quan trọng, nhưng tôi phải bảo vệ sự tôn nghiêm của một vị Chủ tịch nước. Ai đã bãi miễn Chủ tịch nước? Phải có thẩm phán, cũng phải thông qua Đại hội Đại biểu Nhân dân. Các anh làm như vậy là sỉ nhục quốc gia chúng ta. Cá nhân tôi cũng là một công dân, tại sao không cho tôi được nói? Hiến pháp bảo vệ quyền lợi thân thể của công dân không bị xâm phạm. Người phá hoại Hiến pháp sẽ phải chịu những chế tài pháp luật nghiêm trọng”. Đáng tiếc là Lưu Thiếu Kỳ đến bây giờ mới nghĩ đến việc bảo vệ “Hiến pháp”. Sau khi Trung Cộng giành được quyền lực, nó đã tổ chức biết bao nhiêu cuộc vận động chính trị, bức hại biết bao nhiêu con người, là nhân vật đứng thứ hai của Trung Cộng, Lưu Thiếu Kỳ khó mà chối bỏ được tội trạng. Khi ông ta “nghe lời đảng” mà đả kích người khác thì không nói đến bảo vệ Hiến pháp, vậy mà khi bản thân mình bị đấu tố mới nghĩ đến Hiến pháp.

Phàm là người “nghe lời đảng, đi theo đảng” đều không có kết cục tốt đẹp, đây là điều tất yếu.

Thứ nhất, Trung Cộng được thành lập dựa trên đấu tranh, và nó cũng duy trì sự thống trị bằng đấu tranh, “cái máy nghiền thịt cách mạng” một khi đã khởi động thì không dễ dàng dừng lại được, trong quá trình đó, mỗi người đều phải trở thành nạn nhân của nó, chỉ là thời gian sớm hay muộn mà thôi. Trung Cộng rất giỏi kích động các nhóm quần chúng đấu tranh lẫn nhau, nói trắng ra nhóm bị kích động chỉ là công cụ để Trung Cộng lợi dụng, sau khi lợi dụng xong, bị Trung Cộng nhẹ thì tiện tay ném đi, nặng thì đả đảo đấu tố, hoặc giết người diệt khẩu, làm con dê thế tội cho nó. Do đó, “hại người lúc đầu, hại mình về sau” là số mệnh chung của nhóm người này. Có một câu chuyện về đạo lý này là “tự làm tự chịu”. Thương Ưởng [9] đã thay đổi pháp luật của nước Tần, sau khi Tần Lý Công chết, ông ta bị buộc phải sống lưu vong. Một lần ông muốn lưu lại một quán trọ, chủ quán trọ từ chối, nói theo pháp luật của Thương Quân, quán trọ nào nhận khách mà không chứng minh được thân phận thì chủ quán sẽ bị trừng phạt. Hình phạt nặng nề mà Thương Ưởng ban hành cuối cùng đã hại chính ông ta. Người Trung Quốc thường có câu “chuyển đá tự rơi vào chân mình”. Đây chính là hiện tượng cơ chế đấu tranh phản lại người phát động đấu tranh. Hai ví dụ trên đây là bằng chứng sinh động cho hiện tượng này.

Thứ hai, Trung Cộng cần phải xây dựng chế độ độc tài một đảng, mọi lợi ích của đảng viên, bao gồm cả lợi ích của người lãnh đạo tối cao, đều phải phục tùng lợi ích của “đảng”. Do đó nó có thể tùy ý lựa chọn đối tượng bị đả kích, bất cứ cá nhân hay đoàn thể nào uy hiếp hoặc bị Trung Cộng cho là uy hiếp đến chế độ một đảng của nó thì đều bị trấn áp và thanh trừng; cho dù không có kẻ thù nhưng cứ đến một thời gian nhất định, Trung Cộng sẽ tạo ra một kẻ thù, gợi lại những ký ức của người dân về sự khủng bố, từ đó củng cố quyền lực của nó. Khi bất cứ lúc nào cũng có thể bị đảng coi là kẻ thù, con đường duy nhất để người ta tự bảo vệ mình là: cố gắng phỏng đoán tâm lý và động thái của đảng, tranh thủ lấy lòng đảng, biến “đảng tính” trở thành kim chỉ nam duy nhất cho hành động của mình. Chúng ta đều biết rằng, thân thể con người chỉ là cái xác, sinh mệnh chân chính của con người nằm ở tinh thần và linh hồn. Một thân thể mà không có linh hồn thì không khác gì động vật. Khi cố gắng đồng lòng nhất trí với “đảng”, người ta đã hoàn toàn giết chết sinh mệnh tinh thần của mình, đã biến tự ngã chân chính của mình thành kẻ thù. Theo nghĩa này, những người chiến thắng sống sót được qua các cuộc đấu tranh giành quyền lực của Trung Cộng cũng vẫn là kẻ bại trận, bởi vì cái chiến thắng là đảng tính, chứ không phải là nhân tính của bản thân họ, bản ngã thật sự của họ sớm đã chết rồi.

Thứ ba, “đi theo đảng” có nghĩa là thừa nhận triết học đấu tranh của Trung Cộng, chí ít về mặt khách quan đã tiếp thêm năng lượng cho nó đấu với trời, đấu với đất. Các cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ trong và ngoài đảng đã phá hoại đạo đức truyền thống và mối quan hệ giữa con người, làm bại hoại phong tục tập quán xã hội, phá hoại môi trường sống của tất cả mọi người. Người bị đấu tố phải chịu một kết cục bi thảm tất yếu, người đấu tố cũng mất đi sự thanh thản lương tâm. Để tránh cho bản thân khỏi bị đấu tố, mỗi người đều phải đề phòng, ngờ vực người khác một cách vô căn cứ, sống vô cùng khổ sở, mệt mỏi. Trong quá trình tranh đấu lẫn nhau, bản tính ác của người ta bị phóng đại lên đến mức tối đa, lòng đố kỵ, tham lam, ích kỷ, độc ác trở thành tính cách thường thấy trong cuộc sống của người dân Trung Quốc. Tất cả mọi người sống trong môi trường này đều không tránh khỏi gánh chịu hậu quả của Văn hóa đảng.

3) Một số hình thức đi theo đảng

Có thể có người nói, Đảng Cộng sản ngày nay không còn như Đảng Cộng sản trước đây nữa, vả lại, hiện nay cũng không còn ai tin vào Đảng Cộng sản nữa. Người dân đều bận rộn với đời sống thường nhật, còn ai đi theo đảng nữa? Ngày nay người dân đối với Đảng Cộng sản đều là bằng mặt mà không bằng lòng, có người bạo gan còn suy nghĩ xem làm thế nào để đảng đi theo mình, không chừng có ngày Đảng Cộng sản thật sự sẽ thay đổi.

Cách suy nghĩ này thật viển vông. Tư tưởng mà không thực hiện được bằng hành động thì cũng giống như tờ séc không đổi ra được tiền mặt, bản thân nó chẳng có giá trị gì. Đảng Cộng sản chẳng hề sợ người ta chửa rủa nó trên bàn rượu hay chửi thầm trong nhật ký, bởi vì tuy việc ngăn cấm tự do ngôn luận có thể cướp đoạt của người ta quyền được nói nhỏ trong phòng kín hay oán trách trong lòng, nhưng có quyền được nói nhỏ trong phòng kín hay oán trách trong lòng cũng không có nghĩa là bạn có quyền tự do ngôn luận, bởi vì những lời nói không được công khai trước mặt mọi người thì không thể trở thành hành động lớn, cũng không thể gây ảnh hưởng lớn tới cuộc sống hiện tại.

Chúng ta hãy cùng phân tích xem hiện nay người Trung Quốc những ai vẫn còn đi theo đảng.

Công khai đi theo đảng. Một số người tuy hiểu rất rõ bản chất của Trung Cộng là tà giáo lưu manh, nhưng vì lợi ích cá nhân nên thuận theo sự tà ác của đảng, “đảng” cũng lợi dụng tâm địa lòng lang dạ sói của những người này để củng cố địa vị của nó. Những người này là cùng một giuộc với Trung Cộng, cấu kết với nó làm việc xấu, họ là những tay sai tà ác nhất của đảng.


Ảnh: Epoch Times

Đi theo đảng một cách me muội. Trung Cộng khởi nghiệp dựa trên bạo lực và dối trá, nó không chỉ lừa dối “kẻ thù”, quần chúng nhân dân, xã hội quốc tế, đến “người của nó” cũng bị lừa dối. Rất nhiều người vì bị lừa dối mà gia nhập Trung Cộng, đến nay vẫn còn u mê trong những lời giả dối của Trung Cộng mà không thể tự mình thoát ra được. Những người này thuộc vào nhóm những người đi theo đảng một cách mê muội, chiếm số lượng không nhỏ ở Trung Quốc.


Ảnh: Epoch Times

Bất đắc dĩ phải đi theo đảng. Một số người có hiểu biết nhất định về bản chất của Trung Cộng, cũng không muốn thông đồng với Trung Cộng làm chuyện xấu, bất đắc dĩ phải gia nhập Trung Cộng nhưng không thể thoát ra được, do vậy đành phó mặc buông xuôi, họ có một thái độ bi quan đối với hiện thực của Trung Quốc.

Tưởng rằng mình không đi theo đảng. Một số người tưởng rằng đã hiểu rõ bản chất của đảng, nhân việc chính sách của đảng tạm thời cũng có lợi cho mình, họ ôm giữ tư tưởng “hôm nay có rượu thì cứ uống cho say” hoặc “kiếm đủ rồi sẽ rời đi ngay”, họ hăng hái kiếm tiền không từ thủ đoạn nào. Họ giúp Trung Cộng xây dựng một hình ảnh hào nhoáng trong ngắn hạn về cuộc sống phồn hoa đô thị, yên vui hưởng lạc, hình ảnh này không những đã lừa dối được cả xã hội phương Tây mà còn lừa dối cả người dân Trung Quốc. Thực ra, sở dĩ cái hoàn cảnh để những người này có thể tạm thời kiếm chác được chút đỉnh, cũng là do Trung Cộng cố ý tạo ra; lòng tham, sự thiển cận, tâm thái mong giàu có sau một đêm của họ cũng chính là kết quả do Trung Cộng hữu ý tạo nên. Những người này tạm thời làm hình mẫu cho Trung Cộng, nhưng sự giàu có của họ không hề được bảo đảm, Trung Cộng bất cứ lúc nào cũng có thể biến họ trở thành tù nhân sau một đêm, do vậy họ sống mà không có chút cảm giác an toàn nào. Những người này tưởng rằng họ đang đùa giỡn với Trung Cộng, kỳ thực họ đang bị Trung Cộng đùa giỡn lại. Những vấn đề xã hội nan giải do họ và Trung Cộng cấu kết gây nên cuối cùng sẽ làm hại chính họ, cũng làm hại những người thân của họ.

Muốn đảng đi theo mình. Một số người có nhận thức khá rõ về Trung Cộng, cũng có chí hướng muốn cứu nước cứu dân, nhưng họ lại lựa chọn con đường thâm nhập vào nội bộ đảng, với ý đồ từng bước leo lên vào hàng ngũ cấp cao của Trung Cộng, thay đổi Trung Cộng từ bên trong. Rất nhiều người cũng ký thác hy vọng của đất nước Trung Quốc vào họ. Nhưng những người này trong quá trình dần dần leo lên các vị trí cấp cao của Trung Cộng, thì cũng dần dần bị Trung Cộng đồng hóa, bởi vì chốn quan trường của Trung Cộng là nơi mà kẻ dốt thì thắng người giỏi thì thua, đào thải theo hướng ngược lại, cơ chế của nó không cho phép các chính trị gia được trực tiếp khống chế đường lối phát triển của “đảng”, Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương bị phế truất là những ví dụ điển hình nhất cho cơ chế này. Về điểm này, chúng tôi còn có thể đưa ra một vài ví dụ khác.

Từ năm 1959 đến năm 1962, Trung Quốc xảy ra nạn đói khủng khiếp, tỉnh An Huy có số người chết đói lên đến 7 triệu người. Một tai họa nghiêm trọng đến như vậy ở tỉnh An Huy, nguyên nhân là Tăng Hy Thánh – lúc đó là Bí thư tỉnh An Huy đã kiên quyết “đi theo đảng”. Sau đó năm 1962, Tăng Hy Thánh lại được kiêm nhiệm chức Bí thư tỉnh Sơn Đông, trong nạn đói năm đó, tỉnh Sơn Đông có 9 triệu người chết đói. Tăng Hy Thánh vì “đi theo đảng” mà khiến hàng triệu người chết đói, khiến nhân dân vô cùng căm phẫn, đối mặt với nguy cơ bị xử bắn. Nhưng do ông ta kiên trì đi theo con đường của Mao Trạch Đông, nên Mao tuyên bố ông ta là người tốt và bảo vệ ông ta.

Tăng Hy Thánh có một trợ lý tên là Trương Khải Phàm, là Phó Bí thư tỉnh An Huy. Năm 1959 nghe nói ở vùng nông thôn có nhiều người chết đói, ông liền xuống huyện Vô Vi điều tra. Huyện Vô Vi là một kho thóc của cả nước, một huyện rất lớn với 1,4 triệu dân, mà lúc đó thành phố Vu Hồ cũng chỉ có 300.000 dân. Khi Trương Khải Phàm xuống điều tra thì đã có 900.000 dân chết đói. Trương Khải Phàm bứt rứt lương tâm, quyết định giải tán nhà ăn công cộng, mở kho phát lương thực, cứu sống 500.000 dân. Nhưng Trương lại bị Tăng Hy Thánh bắt giữ, bị còng tay xích chân. Mao Trạch Đông quy kết Trương Khải Phàm là phần tử chủ nghĩa cơ hội cánh hữu, bị kết án 20 năm.

Mỗi đảng viên đều chịu sự kiểm soát của cơ chế tà ác như vậy. Trương Khải Phàm đã mở kho lương thực cứu sống 500.000 người, được người dân hết lời ca ngợi là “Bao Thanh Thiên”, nhưng lại là đối tượng bị Đảng Cộng sản hãm hại, bởi vì Trương Khải Phàm không đồng lòng với đảng. Còn Tăng Hy Thánh làm cho hàng triệu người dân chết đói thì lại không việc gì, bởi vì ông ta đồng lòng với đảng. Trong các cuộc vận động chính trị liên tiếp, đảng liên tục huấn luyện đảng tính của người ta như vậy, khiến họ khi gặp vấn đề thì đầu tiên phải nghĩ đến lợi ích của đảng, chứ không được nghĩ đến nhân tính và lương tri. Như vậy, trong quá trình từng bước leo lên chốn quan trường Trung Cộng, họ cũng đồng thời phải liên tục gánh trên vai những tội lỗi của Trung Cộng. Khi bản thân họ đã nhúng chàm thì vận mệnh của họ cũng bị trói buộc vào vận mệnh của Trung Cộng. Lúc này dù không muốn đi theo đảng nữa, họ cũng không thể thoát ra nổi.

Còn một bộ phận người định “đấu cờ” với đảng, dùng phương thức “hợp lực” để thay đổi quỹ đạo lịch sử. Những người này cho rằng, phương hướng phát triển của lịch sử là do sự kết hợp của các lực lượng trong xã hội. Do đó, họ định dùng nỗ lực của bản thân để gây ảnh hưởng đến người dân và một bộ phận quan chức Trung Cộng, cuối cùng ép Trung Cộng phải thỏa hiệp, thay đổi quỹ đạo vận hành của nó, dần dần đưa nó vào quỹ đạo mới tốt đẹp. Khởi điểm mục đích của những người này là lương thiện, tốt đẹp. Nhưng Trung Cộng lại nắm toàn bộ quyền lực đối với bộ máy bạo lực và hệ thống tuyên truyền, lũng đoạn mọi quyền quyết định liên quan đến quốc kế dân sinh. Mong muốn và nỗ lực tốt đẹp của một số ít người, so với việc làm hại nước hại dân của Trung Cộng trên quy mô toàn quốc, quả là không đáng kể gì. Nếu ví chính quyền Trung Cộng hiện nay như một đoàn tàu hỏa đang lao về phía vực sâu, thì những hành khách trên tàu liệu có thể bằng cách sắp xếp lại hay dọn dẹp vệ sinh trong các toa tàu mà tránh được hậu quả chết người không? Đối với người dân Trung Quốc mà nói, nếu không thể thay đổi được hướng đi của đoàn tàu, thì chỉ còn một con đường thoát đó là rời khỏi đoàn tàu.

4. Đảng bảo làm sao thì làm vậy

Một người bình thường hành động theo sự phán đoán của bản thân. Những phán đoán này cần phải dựa trên cơ sở những thông tin chính xác và các nguyên tắc đạo đức thông thường. Con người sở dĩ khác với máy móc là bởi con người có thể tự chủ trong hành động và có năng lực phán đoán. Nhưng Trung Cộng lại thường xuyên tuyên truyền rằng “đảng bảo làm sao thì làm vậy”, còn coi đây là biểu hiện của “đảng tính mạnh mẽ”, “ý thức giác ngộ cao”, “tính tổ chức kỷ luật tốt”.

Trong những năm phong ba bão táp khoảng 30-40 năm trước, rất nhiều người nhiệt huyết hưởng ứng: “Nguyện làm một viên gạch của cách mạng, theo đảng đi bất cứ nơi đâu”, “đảng bảo làm sao thì làm vậy”. “Làm sao” trong tiếng Trung bao hàm tất cả những việc làm có thể là việc bình thường, cũng có thể là những việc trái với đạo lý, tuyệt đối không thể làm như giết người hại mệnh, sát nhân phóng hỏa v.v.. Một câu nói “đảng bảo làm sao thì làm vậy” đã hủy hoại những tiêu chuẩn thiện ác và tuân theo đạo trời của xã hội Trung Quốc suốt mấy nghìn năm nay, trao toàn bộ quyền chỉ huy và quyền phán quyết tối cao cho Trung Cộng. Con người khi đó không hề nghĩ rằng đây là sự mù quáng, mê tín đi theo Trung Cộng, là điều hoang đường và bi thương, ngược lại người ta lại có cảm giác vô cùng vinh dự. Những người nghe và tin theo lời tuyên truyền “đảng bảo làm sao thì làm vậy” luôn xông pha hàng đầu trong các cuộc đấu tranh giai cấp bức hại chính gia đình, hàng xóm, bạn bè, đồng nghiệp của mình, hay đấu với Trời, đấu với Đất, hủy hoại thiên nhiên, hay tố giác người khác, họ lấy làm vinh dự khi trở thành đầy tớ của Trung Cộng, đảng chỉ đâu thì đánh đấy.

Đến đây, từ tuyên truyền Trung Cộng có “ân” với người dân Trung Quốc (không có Đảng Cộng sản thì không có Trung Quốc mới), có “tình” với người dân Trung Quốc (được cha yêu, được mẹ yêu không bằng được đảng yêu), yêu cầu người ta phải nghe lời nó (nghe lời đảng, đi theo đảng), Trung Cộng đã phát triển đến độ yêu cầu người ta hoàn toàn buông bỏ tư duy của họ, hiến dâng tất cả cho Trung Cộng, hoàn toàn trở thành công cụ trong tay Trung Cộng. Trong cuộc vận động “Bảo tiên” (giữ gìn hoạt động giáo dục tiên tiến của đảng viên) mấy năm gần đây, Trung Cộng không chỉ muốn “đảng bảo làm sao thì phải làm vậy”, mà còn muốn “đảng không bảo làm thì không được làm”. Trong lịch sử chưa từng có bất cứ chính quyền nào lại tẩy não và nô dịch người dân triệt để như Trung Cộng.


Ảnh: Epoch Times

1) Đảng bắt người ta làm những gì

Mùa hè năm 1967, trên dòng sông Tiêu Thủy chảy ngang qua vùng thung lũng châu Đạo nổi lên những xác chết trương phình, mặt sông nổi một lớp váng màu đỏ sậm. … Khắp nơi đều là khẩu hiệu “chém sạch giết sạch ‘bốn loại phần tử xấu’, giữ màu đỏ vạn đời cho giang sơn”, khắp nơi đều là những thông báo giết người của “tòa án tối cao bần nông và trung nông ”, toàn huyện Đạo và khu vực lân cận hoàn toàn sống trong tình trạng khủng bố đỏ.

Đây là một đoạn mô tả trong “Ký sự về cuộc thảm sát ở vùng nông thôn huyện Đạo, Hồ Nam”, viết về tình cảnh bi thảm của cuộc đại thảm sát tại huyện Đạo, Hồ Nam thời Cách mạng Văn hóa. Cuộc đại thảm sát này diễn ra tại huyện Đạo, Hồ Nam trong thời gian hơn hai tháng, nhằm vào những người được gọi là “bốn loại phần tử” (địa chủ, phú nông, phản động và phần tử xấu) và gia đình người thân bốn đời của họ, toàn vùng đã có hơn 9.000 người bị giết. Người bị giết chủ yếu là những người bị liệt vào “bốn loại phần tử” và con cái của họ, người nhiều tuổi nhất 78 tuổi, nhỏ tuổi nhất mới được 10 ngày tuổi.


Ảnh: Epoch Times

19 năm sau, một trong những người chịu trách nhiệm chính về cuộc đại thảm sát, Quan Hữu Trí, nguyên Bộ trưởng Vũ trang khu Thanh Đường, Tổng chỉ huy thuộc Ban Chỉ huy Tiền tuyến Doanh Giang “hồng liên” (Bộ Tư lệnh Liên hợp chiến sĩ hồng quân theo tư tưởng Mao Trạch Đông), ở trong tù khi trả lời phỏng vấn ông đã nói như sau:

“Tôi vào quân đội đã 50 năm, đã gia nhập đảng trong quân đội, được đề bạt làm cán bộ. Năm 58 chuyển về huyện Đạo,… tôi chưa từng bị xử phạt bất cứ tội gì, đều là đảng bảo làm sao thì làm vậy. … Hàng ngày tôi đều được học rằng nhất định không được quên đấu tranh giai cấp, được học rằng kẻ thù giai cấp muốn phá hoại, muốn ngóc đầu trở lại giành quyền lực, Tưởng Giới Thạch muốn tấn công Đại lục, tôi là người cầm súng, sao có thể yên tâm được? Khi đấu tranh vũ trang Cách mạng Văn hóa, lũ tạo phản đã cướp súng của bộ đội, lại nghe nói bốn phần tử muốn đảo chính, muốn phản lại chính quyền cách mạng, nên tôi tự giác đứng về phe ‘hồng liên’”.

Cũng giống như Quan Hữu Trí, rất nhiều người trong các cuộc vận động chính trị của Trung Cộng đã giết người, đánh người, đấu tố người khác, nhưng sau đó họ không những không sám hối, mà còn một mực cảm thấy không công bằng cho bản thân: chỉ là “đảng bảo làm sao thì họ làm vậy”, bản thân họ chỉ là một quân cờ, một công cụ của đảng, họ không chịu trách nhiệm cho những gì mình làm.

Chúng ta hãy nhìn lại xem Đảng Cộng sản bắt người ta làm những gì. Thực tế, trong hoạt động sản xuất sinh hoạt bình thường, về cơ bản không cần đảng bảo người ta làm gì. Trong bất cứ một xã hội bình thường nào, người ta đều phải làm việc, phải ma chay cưới hỏi, phải nghiên cứu khoa học, biểu diễn nghệ thuật, phải phát minh sáng tạo, người ta đều có nhu cầu đời sống tinh thần, giao tế xã hội. Cũng có nghĩa là, mọi hoạt động bình thường của con người đều không cần đảng phải động viên người ta đi làm. Những việc mà đảng hô hào khởi xướng, tuyên truyền cổ động người ta làm, có thể nói không phải là việc tốt, cũng không phải vì ổn định xã hội hay hạnh phúc của nhân dân, mà đều vì bảo vệ lợi ích độc đảng của nó.

Năm xưa, Trung Cộng tuyên truyền chỉ mình nó mới thực sự chống Nhật, lừa dối rất nhiều thanh niên nhiệt huyết đến Diên An, nhưng họ chỉ có thể vào mà không ra được, những người này bị cưỡng ép tẩy não, lúc hối hận thì đã muộn. Kỳ thực, lúc đó quân Nhật đã chiếm đóng hơn một nửa Trung Quốc, quân Quốc dân đã gian khổ kháng chiến chống Nhật, nếu thực sự muốn kháng Nhật thì không cần phải tập trung ở Diên An. Trung Cộng hô hào “Giải phóng toàn Trung Quốc” thực ra là phát động cuộc nội chiến toàn diện, lật đổ chính phủ hợp pháp, đưa chế độ thống trị tập quyền của Đảng Cộng sản từ Diên An mở rộng ra toàn Trung Quốc. Cuộc chiến “Chống Mỹ cứu giúp Triều Tiên” khiến Trung Quốc mất đi hàng triệu mạng người cùng những khoản chi phí quân sự khổng lồ, Trung Cộng đã gần như vắt kiệt nền kinh tế lúc đó để giúp chính phủ lưu manh nhà Kim kéo dài sự hấp hối, đưa người dân Triều Tiên lún sâu vào hoạn nạn trầm trọng. Các cuộc vận động Đại nhảy vọt, Công xã, Nhanh chóng tiến lên chủ nghĩa xã hội, đã gây ra nạn đói khủng khiếp cướp đi sinh mạng của 40 triệu người. Cuộc Cách mạng Văn hóa gây ra sự hỗn loạn trên toàn đất nước, người chết vô số, kinh tế đất nước gần như kiệt quệ, những nhân tài ưu tú phiêu bạt các nơi, nền văn hóa truyền thống bị phá hủy gần như không còn. Cuộc vận động đưa “các phần tử trí thức về sống ở nông thôn” đã khiến rất nhiều người trí thức trẻ mất đi cơ hội được học tập, bỏ phí tuổi thanh xuân tươi đẹp ở vùng nông thôn hoặc nơi biên cương.

Dưới sự tuyên truyền Thuyết vô Thần và Thuyết duy vật của Trung Cộng, “đảng bảo làm sao thì làm vậy” câu nói này thực sự vô cùng đáng sợ. Bởi vì người ta không còn tin vào Đạo Trời nữa, chỉ cần có thể khiến cho đảng vui lòng, mang lại lợi thế cho mình, thì việc đồi bại nào người ta cũng dám làm. Ví dụ điển hình nhất hiện nay là cuộc bức hại đối với Pháp Luân Công. Rất nhiều cảnh sát lấy chính sách bức hại làm cái cớ, nói rằng đó là do cấp trên chỉ đạo, do đó ra tay đánh đập các học viên Pháp Luân Công, thậm chí tra tấn người ta đến chết, còn cấu kết với các bác sĩ mất hết nhân tính để mổ cướp nội tạng sống của các học viên Pháp Luân Công.


Ảnh: Epoch Times

Mô hình “Khoán sản phẩm” và “Xí nghiệp nông thôn” đươc coi là hai sáng kiến tiên phong của nông dân Trung Quốc, thực ra đều là kết quả của việc Trung Cộng lơi lỏng quản lý. Người dân tự biết rõ nhất làm thế nào để quản lý cuộc sống tốt. Khi Trung Cộng không làm gì thì chính là lúc người dân được sống tốt nhất, Trung Cộng hễ động tay vào việc gì thì chắc chắn gây tai họa cho dân. Lịch sử hơn 50 năm qua đã chứng minh một chân lý đơn giản như vậy.

2) Các “công cụ phục tùng” phục vụ cho mục đích gì

Trung Cộng không những trắng trợn hô hào người dân “đảng bảo làm sao thì làm vậy”, lợi dụng nhiệt huyết chính trị bị kích động và các phương thức tẩy não khiến người ta cam tâm tình nguyện chịu sự lừa gạt, khống chế và chỉ huy của nó, nó còn thường xuyên sử dụng các thủ đoạn lừa gạt, dùng những lý do nghe có vẻ quang minh chính đại như “thuận theo đại cục”, “vì lợi ích của nhân dân” để khiến người ta tin rằng “những việc đảng bảo làm” không phải là những việc bỉ ổi và tà ác, cho dù là sát nhân phóng hỏa, dù là tự mình hại mình thì cũng đều vì “sự nghiệp vĩ đại của đảng”.

Lý luận “công cụ phục tùng” của Trung Cộng lừa gạt người ta ở chỗ, Trung Cộng đồng thời cũng khẳng định nó có những phẩm chất chí công vô tư, chăm chỉ tích cực, đặt lợi ích tập thể lên trên, chịu đựng khổ cực.. Cũng chính vì vậy, khi có người chỉ ra rằng Trung Cộng phá hoại đạo đức truyền thống, khiến cho đạo đức toàn xã hội trượt dốc, rất nhiều người không hiểu nổi: Trung Cộng dường như rất chú trọng xây dựng đạo đức, còn đưa ra một loạt những lý luận kiểu như “đạo đức Chủ nghĩa Xã hội”, “đạo đức Chủ nghĩa Cộng sản”, “tu dưỡng đạo đức của người đảng viên”, “tám điều vinh, tám điều nhục”, phát động phong trào “học theo Lôi Phong”, “học theo Tiêu Dụ Lộc”, “học theo Khổng Phồn Sâm”, hiện tượng này giải thích thế nào?

Suy nghĩ kỹ một chút, chúng ta không khó phát hiện rằng kiểu phương thức tư duy này khiến người ta trở nên mơ hồ khi phân biệt giữa mục tiêu đạo đức và thái độ làm việc. Nếu một sự việc bản thân nó là tốt, vậy thì thái độ chăm chỉ, chân thành, tiết kiệm của người thực hiện sẽ khởi tác dụng tốt; ngược lại, nếu một sự việc bản thân nó là xấu thì những phẩm chất này cũng sẽ làm tăng mức độ tà ác của nó. Một tên trộm cần cù, thật thà hiển nhiên là đáng sợ hơn một tên trộm lười nhác, một tên khủng bố khiêm tốn học hỏi, từ đó nắm vững những kỹ thuật cao chắc chắn sẽ đáng sợ hơn một tên khủng bố có kỹ thuật tầm thường. Khi cả xã hội bị lôi cuốn theo một công việc có mục đích tà ác, thì việc chăm chỉ nghe lời để làm tốt công việc đó còn đáng sợ hơn sự lười biếng, tiêu cực.

Trung Cộng cổ xúy rằng vì “lợi ích của đảng”, đảng viên phải “không do dự hy sinh lợi ích cá nhân, thậm chí hy sinh cả sinh mệnh bản thân”, “đây mới chính là biểu hiện cao nhất của đạo đức Chủ nghĩa Cộng sản, là biểu hiện cao nhất của tính nguyên tắc trong chính đảng của giai cấp vô sản, là biểu hiện cao nhất của ý thức chân chính của giai cấp vô sản”. “Đảng viên không nên có mục tiêu cá nhân độc lập xa rời lợi ích của đảng”. Rất dễ nhận thấy “đạo đức”, “khái niệm vinh nhục” do đảng đề xướng, trên bề mặt thì tương đồng với luân lý đạo đức truyền thống, còn về bản chất vẫn để bảo vệ chế độ chuyên chế độc đảng của Trung Cộng.

Mọi người đều rất quen thuộc với câu chuyện “Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. Một người muốn đi đến nước Sở, cho dù anh ta có một con ngựa chạy rất nhanh, có đầy đủ tiền đi đường, có một người đánh xe có bản lĩnh cao cường, nhưng nếu anh ta đi nhầm hướng thì vĩnh viễn cũng không đến được nước Sở. Vả lại trong hoàn cảnh đó, ngựa của anh ta càng tốt, tiền đi đường càng nhiều, người đánh xe ngựa càng tài giỏi, thì chỉ có thể khiến anh ta đi càng ngày càng xa nước Sở mà thôi. Khi người ta nghe lời đảng, tận tụy làm việc cho đảng; giúp đảng lừa gạt người dân, bức hại người dân; khi họ ca ngợi công đức của Trung Cộng, tô son trát phấn cho nó, chẳng phải là đang dốc sức giúp đỡ Trung Cộng đưa xã hội Trung Quốc đến bờ vực thẳm nhanh hơn hay sao?

3) Biểu hiện ngày nay của “đảng bảo làm sao thì làm vậy”

Người Trung Quốc ngày nay ngày càng trở nên coi trọng hiện thực, không còn tin vào Chủ nghĩa Cộng sản nữa, họ càng không muốn tin theo bất cứ chủ nghĩa hay tín ngưỡng nào. Vậy nên, Trung Cộng bắt đầu chuyển sang một khía cạnh khác của câu khẩu hiệu “đảng bảo làm sao thì làm vậy”: đó là đảng không bảo làm thì không được làm, có nghĩa là không được làm những gì mà đảng không thích. Câu nói mà người dân thường nghe nhất là: “Sự việc này trung ương đã quyết định như vậy rồi, không cho làm thì đừng có làm.”

Một cách lặng lẽ kín đáo, Trung Cộng đã vạch ra những giới hạn mà đảng cho người ta được làm: “khởi nghiệp”, “kiếm tiền”, “làm giàu trong một đêm”, “chơi cổ phiếu”, “ăn ngon”, “cuộc sống hiện đại”, “thời thượng”, “giới trí thức”, “tinh anh”, “xe hơi”, “bất động sản”, “giải trí”, “nghỉ ngơi”, “chuyện phiếm”, “phim kích dục”, “ngoại tình”, “mê hoặc sắc tình”… Đảng cho phép người ta tự do hưởng thụ cuộc sống vật chất, khuyến khích người ta phóng túng dục vọng, thỏa sức cờ bạc, rượu chè, trai gái, xã hội Trung Quốc ngày nay về mặt này rất “tự do”. Rất nhiều cán bộ Trung Cộng cũng “theo kịp thời đại”, “lấy mình làm gương”. Có thể rất nhiều người bối rối không hiểu vì sao “càng chống hủ bại lại càng hủ bại”, kỳ thực xét một cách nghiêm túc, sự hủ bại đó hoàn toàn nằm trong phạm vi “đảng bảo làm sao thì làm vậy”, nếu như đảng thực sự không cho phép hủ bại, không tạo thuận lợi và đặc quyền cho đảng viên và cán bộ, thì ai còn muốn bán sinh mệnh của mình cho Đảng Cộng sản nữa? Bản thân Trung Cộng đã không còn cách nào để duy trì nữa rồi. Nhưng có một điểm khác biệt, làm bậy thì được còn những việc đảng không cho làm thì không được làm, những việc đó là: không được đề xuất ý kiến với đảng, bàn luận về cải cách chính trị nhưng không được cải cách thật, không được nghiên cứu nghiêm túc về những vấn đề xã hội, càng không được có cách nhìn khác về sự thống trị của đảng. Nếu thoái đảng hoặc bảo người khác thoái đảng, thì đảng càng không cho phép làm.


Ảnh: Epoch Times

Ngày nay khi phe Cộng sản đã sụp đổ, người ta đều xem thường Chủ nghĩa Cộng sản, để duy trì sự thống trị của mình, Trung Cộng lại càng phất cao ngọn cờ Đảng Cộng sản độc tài. Dưới sự thống trị của đảng, các vấn đề xã hội ngày càng trở nên gay gắt. Chênh lệch giàu nghèo lớn, chi phí khám bệnh đắt đỏ, học phí đắt đỏ, mua nhà đắt đỏ, tìm việc khó khăn, điều kiện phúc lợi xã hội yếu kém, tham nhũng hoành hành, đạo đức bại hoại, ô nhiễm môi trường, không có dân chủ, người dân không có quyền lên tiếng, trật tự trị an kém; khiêu dâm, đánh bạc, hút hít ma túy tràn lan, không tuân theo pháp luật, ngăn chặn quyền khiếu nại của người dân. Những vấn đề này chỉ Trung Cộng mới có thể đề cập, còn với cá nhân thì không được quyền nói đến, không cho phép “viết ra, tìm kiếm, công bố, truyền bá” vì bị coi là chứa “tiết lộ bí mật quốc gia, uy hiếp sự an toàn của quốc gia”, “các nội dung khác mà pháp luật cấm”. Nếu người ta muốn nỗ lực giải quyết những vấn đề xã hội này hoặc bảo vệ quyền lợi cơ bản của bản thân khi bị xâm phạm, vậy thì nhất định là việc mà đảng không cho làm.

4) Hậu quả tất yếu phải chịu

Trung Cộng phát động các cuộc vận động chính trị không có định kỳ. Mỗi cuộc vận động đều là một thảm họa lớn. Sở dĩ nó có thể phát động những cuộc vận động này là do người dân không dựa vào năng lực phán đoán của bản thân mà lại tư duy theo kiểu “đảng bảo làm sao thì làm vậy”. “Đảng bảo làm sao thì làm vậy” có nghĩa là một lòng đi theo triết học đấu tranh của đảng, tiếp năng lượng cho đảng đấu với trời, đấu với đất, hoàn thành mục tiêu thống trị của Trung Cộng.

Người ta theo Trung Cộng giết người, thế nên hàng triệu “địa chủ”, “nhà tư bản”, “phần tử trí thức” phải chịu đầu rơi máu chảy; người ta theo Trung Cộng làm Đại nhảy vọt, thế nên mấy chục triệu người chết đói; người ta theo Trung Cộng làm Đại Cách mạng Văn hóa, thế nên xã hội Trung Quốc phải trải qua một cuộc hủy hoại văn hóa và nhân tính chưa từng có; người ta vào hùa với nó tiêu diệt Pháp Luân Công, thế nên dân tộc Trung Hoa đã xảy ra một thảm kịch bức hại tín ngưỡng chưa từng có trong lịch sử.


Ảnh: Epoch Times

Từ việc địa chủ cùng con cái của họ bị diệt trừ tận gốc, moi tim ăn thịt, Trương Chí Tân bị cắt yết hầu, chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ không qua xét xử theo trình tự pháp luật bị giam giữ bức hại đến chết, cho đến việc các học viên Pháp Luân Công bị mổ cướp nội tạng sống, còn cần thêm bao nhiêu bài học giáo huấn nữa mới khiến người ta thoát khỏi sự đầu độc của những lời tuyên truyền của Trung Cộng “đảng bảo làm sao thì làm vậy”, khiến họ tỉnh ngộ không theo Trung Cộng làm điều ác nữa?

Khi bị trói buộc bởi câu “đảng bảo làm sao thì làm vậy”, mọi người dân Trung Quốc đều trở thành người bị hại, những ai càng gắn bó với Trung Cộng thì càng bị hại nặng nề.

Trung Cộng gọi những vùng nghèo khó là “cũ, thiểu, biên, bần” (vùng căn cứ cũ, vùng dân tộc thiểu số, vùng biên giới, vùng nghèo khó), cũ chính là chỉ những vùng “căn cứ địa cách mạng ở nông thôn” nơi mà Trung Cộng đã được thành lập. Trung Cộng có thể giành được chính quyền, phần lớn là nhờ công lao của những người nông dân đã quyên góp tiền của, lương thực, hiến dâng sinh mệnh của họ cho nó. Trần Nghị từng nói: “Chiến dịch Hoài Hải thắng lợi là nhờ sự hỗ trợ hiệu quả của quần chúng nhân dân”. Sau khi giành chính quyền, Trung Cộng không những không đền ơn đáp nghĩa, nỗ lực giúp đỡ người nông dân thoát nghèo, nó còn chưa bao giờ nương tay thu các loại phí của nông dân. Không chỉ dùng chế độ hộ khẩu để trói buộc người nông dân trên mảnh đất quê nhà, hiện nay nó còn cưỡng ép họ rời bỏ mảnh đất của tổ tiên, thu lại rồi bán với giá cao cho các nhà đầu tư bất động sản. Ở Trung Quốc hiện nay, phần lớn các khu vực khó khăn đều đã từng là “căn cứ địa cách mạng cũ”, mấy chục năm đã qua nhưng những khu vực này vẫn còn nghèo hơn cả thời trước khi Trung Cộng lên nắm quyền.

Tỉnh Thiểm Bắc là “căn cứ địa cách mạng cũ” của Trung Cộng, lương thực của vùng Thiểm Bắc đã cứu sống Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trung ương của Trung Cộng đã cư trú ở Thiểm Bắc hơn 10 năm. Cây cối bị chặt hết, cỏ bị nhổ sạch, gạo bị ăn hết, nhân lực bị sử dụng hết, người dân Thiểm Bắc đã hy sinh rất nhiều cho Trung Cộng. Sau ngày “cải cách”, ở Thiểm Bắc lại phát hiện ra có trữ lượng tài nguyên lớn, Trung Cộng lại đăng biển hiệu “vùng tài nguyên quốc gia” và cho tiến hành khai thác trên quy mô lớn, tài nguyên khai thác được đưa sang vùng khác, toàn bộ tiền bán tài nguyên đều vào túi của các xí nghiệp Trung Cộng, người dân khu vực này vẫn tiếp tục bị Trung Cộng bóc lột.

Trung Cộng tự xưng là đội quân tiên phong của giai cấp công nhân, khi giành chính quyền nó lại lợi dụng công nhân để tiến hành cuộc vận động công nhân, đấu tranh vũ trang; khi phản hữu nó để cho “công nhân được nói”, là lực lượng hậu thuẫn kiên cường cho “phản cánh hữu”. Thời Cách mạng Văn hóa, nó lại tổ chức “đội công nhân tuyên truyền”, để công nhân thu dọn mớ bòng bong; Trấn áp “cuộc vận động Ngũ tứ” cũng dựa vào công nhân làm “đội công nhân duy trì trật tự”; Trong phong trào học sinh năm 1989 nó lại lôi kéo công nhân vào, để họ bảo vệ sự thống trị của Trung Cộng.

Sau khi Trung Cộng thành lập, để có thể lôi kéo công nhân đi theo đảng, trở thành công cụ đấu tranh của đảng, có thể cống hiến sức lao động cho đảng, nó đã từng trao cho công nhân Trung Quốc “bát cơm sắt” (công việc ổn định), phúc lợi xã hội và địa vị chính trị xã hội. Do đó sau ngày “cải cách mở cửa”, một bộ phận người trở nên giàu có, đây là chỉ những “thái tử đảng” (con cháu quan chức), quan chức, lãnh đạo, cốt cán, tinh anh. Tổ chức nghiên cứu về giới quan chức Trung Cộng tiết lộ rằng: những người đảm nhận các chức vụ chủ yếu trong năm lĩnh vực lớn là tài chính, ngoại thương, khai khoáng, xây dựng, chứng khoán phần lớn đều là con cháu của các cán bộ cấp cao. Vô số người giàu ở Trung Quốc, trên 90% là con cái của quan chức cấp cao, trong đó có hơn 2.900 con cái quan chức có tổng tài sản đến 2.000 tỷ nhân dân tệ. Còn những người công nhân đã từng theo “đảng bảo làm sao thì làm vậy”, đổ bao mồ hôi, hiến dâng cả tuổi thanh xuân cho đảng, những tưởng rằng cả cuộc đời đều có thể được nhận “bát cơm sắt”, nhưng lại bị đảng vứt bỏ không chút thương xót, còn tặng cho một danh từ rất mỹ miều là “rời vọng gác” (nghĩa là thất nghiệp). Các doanh nghiệp nhà nước có hàng chục triệu công nhân thất nghiệp, khi mất đi việc làm họ cũng đồng thời mất hết toàn bộ phúc lợi xã hội mà đơn vị cung cấp, bao gồm nhà ở, giáo dục, bảo hiểm y tế, lương hưu, v.v. Không chỉ vậy, hi vọng của người công nhân vào thế hệ tiếp theo cũng bị phá tan, một gia đình công nhân không cách nào trả nổi tiền học phí học đại học cho con cái, có nghĩa là họ khó mà chu cấp được cho đến khi con cái tốt nghiệp, con cái của công nhân không có chỗ dựa, cũng rất khó tìm được công việc tốt.

Quân đội là huyết mạch của Trung Cộng, đảng chỉ huy nòng súng, chỉ đạo quân đội đánh đâu thì đánh đó. Đối với mỗi người chiến sĩ và tướng lĩnh quân đội, đảng bảo làm sao thì làm vậy đơn giản là lẽ bất di bất dịch. Các quy định về điều kiện quân nhân xuất ngũ và các đãi ngộ trong quân đội Trung Cộng đều do ủy viên quân ủy Bộ Chính trị Trung ương Trung Cộng công bố qua các văn kiện, và có thể thay đổi tùy ý. Một là hoàn toàn không bảo đảm rõ ràng bằng quy định pháp luật, hai là không được quản lý thống nhất bởi các bộ ngành hoặc cơ quan cho quân đội xuất ngũ toàn quốc. Sau khi sử dụng họ xong, Trung Cộng tùy ý ném họ trở lại xã hội, quân nhân xuất ngũ “đi từ đâu thì trở về nơi đó”, cơ bản không còn được hưởng tiếp đãi ngộ phúc lợi. Thương binh cũng không còn chỗ dựa, đến Trung ương Đảng để khiếu nại cũng không được giải quyết, gửi đơn tố cáo lên Bắc Kinh thì bị cấp trên trả lại, còn bị quan chức địa phương khinh thường nói là “một đống giấy vụn”, “có tố cáo lên Liên Hợp Quốc cũng vô dụng”.

Những người lính già đã từng tham gia cuộc chiến chống Mỹ cứu giúp Triều Tiên, ngoài những người có thể ở lại quân đội, những người trở thành liệt sĩ thì cuộc sống của người thân gia đình họ không hề được Trung Cộng quan tâm; những người bị thương tật vẫn còn sống thì đa phần trở về nông thôn, sống cuộc sống khốn khó đầy chán nản, cảnh tuổi già lạnh lẽo cô đơn; những người bị bắt làm tù nhân sau khi trở về nước thì 20, 30 năm sau không cất đầu lên được. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, những người năm đó được phong làm “anh hùng can đảm”, “công thần số một” giờ đây không được ai hỏi thăm, những chiến sĩ và tướng lĩnh đã chết thì được trợ cấp duy nhất một lần khoản tiền từ 800 đến 1000 tệ tùy theo cấp bậc, cuộc sống của gia đình họ không được ai quan tâm. Nghĩa trang liệt sỹ ở đèo Ma Lật, Vân Nam có chôn cất 957 liệt sỹ hy sinh, trong đó có 300 liệt sĩ suốt hơn 20 năm qua không có gia đình đến thăm, chủ yếu vì họ không có đủ tiền đi đường nên không đến được, có một số người thân đến được nghĩa trang thì không còn tiền trở về nhà.

Một biểu hiện ngày nay của khẩu hiệu “đảng bảo làm sao thì làm vậy” là truy cầu cuộc sống vật chất, vì Trung Cộng luôn mong người ta truy cầu lợi ích vật chất mà bỏ qua các quyền lợi khác. Hơn nữa, Đảng Cộng sản cũng đã thay đổi chính sách “tiêu diệt giai cấp bóc lột” trước đây, đến nhà tư bản cũng được phép gia nhập đảng. Trong số các tỷ phú hàng đầu Trung Quốc có tài sản bình quân 2,2 tỷ nhân dân tệ, tỷ lệ đảng viên chiếm 48,5%, gần một nửa số tỷ phú hàng đầu là đảng viên. Vậy mà họ sau khi trở thành công cụ kinh tế cho đảng, hết lòng cống hiến cho đảng, hễ phân chia lợi nhuận không đều hoặc không lo lót tốt cho một số quan chức “then chốt”, liền lập tức bị tống vào tù. Mưu Kỳ Trung, Dương Bân, Chu Chính Nghị, Lý Kinh Vỹ, Trương Hải đã lần lượt vào tù, “danh sách tỷ phú Trung Quốc” trở thành “danh sách tội phạm Trung Quốc”. Những người lợi dụng Đảng Cộng sản để trở nên giàu có lũ lượt mang con cái và tài sản ra nước ngoài, những bài học như thế quá nhiều. Cuộc đời vật đổi sao dời, những nhà tư bản năm đó đã ủng hộ, đi theo Đảng Cộng sản, nay trở nên khuynh gia bại sản, nhà tan cửa nát chính là minh chứng cho điều đó.


Ảnh: Epoch Times

Trên đây nói về bộ phận những kẻ ăn cháo đá bát, đến thời điểm then chốt, Trung Cộng để bảo vệ bản thân nó thì ngay cả những công cụ còn dùng được nó cũng có thể hy sinh hết. Khi cách mạng văn hóa kết thúc, toàn quốc có 17 tướng lĩnh quân đội, 793 cảnh sát, tổng cộng là 810 người bị đưa đến Vân Nam bí mật thủ tiêu, để lừa gạt gia đình họ, chúng gửi cho gia đình tờ thông báo “hy sinh khi làm nhiệm vụ”, nhằm che dấu nội tình, giết người bịt miệng. Lúc đó Cục trưởng Cục Công an Bắc Kinh là Lưu Truyền Tân trước khi bắt đầu bị điều tra đã lo sợ mà tự sát. Không chỉ vậy, Giang Trạch Dân cũng từng thông qua thân tín ở Mỹ để dò la ý tứ của Pháp Luân Công, ông ta đề xuất rằng có thể làm giống thời Cách mạng Văn hóa là xử bắn một số cảnh sát đã đánh chết các học viên Pháp Luân Công để đền mạng, đổi lại việc Pháp Luân Công sẽ không khởi tố ông ta, còn nói rằng có thể làm nghiêm túc hơn thời Cách mạng Văn hóa, bao nhiêu học viên Pháp Luân Công chết thì có thể bắn chết bấy nhiêu cảnh sát.

Vào mỗi giai đoạn lịch sử quan trọng, Trung Cộng đều biểu lộ đặc trưng của nó là “vứt bỏ cái thiện theo cái ác”. Nhưng Trung Cộng hành ác tất nhiên phải mượn tay của cá nhân đảng viên, khi Trung Cộng sụp đổ thì người phải chịu hậu quả cho tội ác tất nhiên cũng là cá nhân đảng viên, cũng giống như việc Đức quốc xã bại trận năm đó, đối tượng bị đưa ra Nuremberg xét xử là các đảng viên Đảng quốc xã. Cũng có nghĩa là, những người lấy lý do là “đảng bảo sao thì làm vậy”, “chỉ chấp hành mệnh lệnh”, “chấp hành nhiệm vụ” để giúp đỡ Trung Cộng làm việc ác, có thể hiện nay còn dựa được vào ô dù chính quyền Trung Cộng, tạm thời chưa bị đưa ra ánh sáng, nhưng sau khi Trung Cộng sụp đổ thì mỗi người sẽ phải đối mặt với những chế tài pháp luật và những bản án chính nghĩa. Lúc đó thì chẳng còn ô dù của Trung Cộng để mà dựa dẫm nữa.


Ảnh: Epoch Times

Không chỉ như vậy, bên trên tòa án của con người còn có tòa án của thiên thượng. Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo, không thể dùng ý chí của con người để thay đổi quy luật tự nhiên. Trong văn hóa truyền thống Trung Quốc, Đạo gia giảng “Họa phúc đều do con người tự tạo ra”, Phật gia giảng quan hệ nhân quả, “Thiện ác hữu báo, như hình với bóng”, người ta làm gì thì bản thân đều phải gánh chịu hậu quả. Dân gian có câu “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo, không phải không báo ngay, chỉ là chưa đến lúc”. Từ xưa đến nay, ở cả phương Đông và phương Tây, những ví dụ về thiện ác hữu báo này nhiều không kể xiết. Nhìn lại lịch sử, những người đã trở thành công cụ của Trung Cộng, cho dù lúc đầu huy hoàng bao nhiêu thì số phận cuối cùng đều rất thê lương, cô quạnh. Đây chẳng phải là thể hiện của thiên lý báo ứng sao?

Con người luôn đồng thời tồn tại mặt thiện và mặt ác, đối mặt với sự lựa chọn lớn, trong tâm người ta sẽ có sự đấu tranh giữa thiện và ác. Nhưng đối với những đảng viên Đảng Cộng sản thì sự đấu tranh càng phức tạp hơn, bởi vì mỗi đảng viên đều tồn tại hai nhân cách “đảng tính” và “nhân tính”. “Nghe lời đảng, đi theo đảng”, “đảng bảo làm sao thì làm vậy”, các khẩu hiệu này đều là đàn áp tín ngưỡng, hủy diệt nhân tính, vì lợi ích của chế độ độc tài Trung Cộng mà làm điều ác. Ngày nay khi tội ác của Trung Cộng đã ngày càng chồng chất, nó đang nhanh chóng đi đến diệt vong, những người còn cố chấp “nghe lời đảng, đi theo đảng”, “đảng bảo làm sao thì làm vậy”, kỳ thực chính là biểu hiện của sự vô trách nhiệm đối với bản thân mình.

Giữ gìn mặt lương thiện trong nhân tính của con người, không để cho đảng chi phối hành động của bản thân, thoái xuất khỏi Trung Cộng, xóa sạch ấn thú của Văn hóa đảng trên thân thể, chúng ta mới có thể lựa chọn cho mình một tương lai tươi sáng.


Ảnh: Epoch Times


Bản gốc:

http://www.epochtimes.com/gb/6/10/21/n1494129.htm

Chú thích:

[2] Ba ngọn núi lớn tượng trưng cho Chủ nghĩa Đế quốc, Chủ nghĩa Phong kiến và Chủ nghĩa Tư bản.

[3] Hệ số Gini thường được sử dụng để biểu thị mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập giữa các tầng lớp cư dân. Số 0 tượng trưng cho sự bình đẳng thu nhập tuyệt đối (mọi người đều có cùng một mức thu nhập), số 1 tượng trưng cho sự bất bình đẳng thu nhập tuyệt đối (một người có toàn bộ thu nhập, trong khi tất cả mọi người khác không có thu nhập).

[4] Chủ nghĩa Tam Dân là một cương lĩnh chính trị do Tôn Dật Tiên đề xuất, với tinh thần biến Trung Quốc thành một quốc gia tự do, phồn vinh và hùng mạnh. Cương lĩnh chính trị này bao gồm: Dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc.

[5] Tam Diện Hồng Kỳ, là ba khẩu hiệu chính trị hồi thập niên 1950 ở Trung Quốc, gồm Đường lối chung xây dựng Chủ nghĩa xã hội, Đại nhảy vọt, và Công xã Nhân dân.

[6] Tōjō Hideki (30 tháng 12, 1884 – 23 tháng 12, 1948) là một đại tướng của Lục quân Đế quốc Nhật Bản và là thủ tướng thứ 40 của Nhật Bản trong suốt phần lớn thời gian của Chiến tranh thế giới thứ hai, từ 18 tháng 10 năm 1941 đến 22 tháng 7 năm 1944. Ông là một trong những nhà tư tưởng theo chủ nghĩa dân tộc và là người ủng hộ chiến tranh với Trung Quốc và các quốc gia khác.

[7] Sách Quản Tử tương truyền là tác phẩm của Quản Trọng (mất năm 645 trước CN). Tác giả tên thật là Di Ngô, tự là Trọng, người đất Dĩnh Thượng, một chính trị gia lỗi lạc đầu thời Xuân thu, từng giúp cho Tề Hoàn Công làm nên bá nghiệp. Sách Quản Tử ban đầu có đến 380 thiên, đến đời Hán được Lưu Hướng chỉnh lý còn 86 thiên.

[8] Ngũ giảng: coi trọng văn minh, lễ phép, vệ sinh, trật tự, đạo đức; Tứ mỹ: tâm linh đẹp, ngôn ngữ đẹp, hành vi đẹp, môi trường đẹp; Tam nhiệt ái: yêu Tổ quốc, yêu Chủ nghĩa Xã hội, yêu Đảng Cộng sản.

[9] Thương Ưởng (khoảng 390 TCN-338 TCN), còn gọi là Vệ Ưởng hay Công Tôn Ưởng, là nhà chính trị gia, pháp gia nổi tiếng, thừa tướng nước Tần của thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc.

Ngày đăng: 27-12-2014