Một quyển sách
đã truyền cảm hứng cho hơn 350 triệu người
thoái xuất khỏi Đảng Cộng Sản Trung Quốc

Chương 9: Kinh tế – Mồi nhử của ma quỷ (Phần II) (audio)

Mục lục

4. Chế độ công hữu và nền kinh tế kế hoạch là chế độ nô dịch trái với đạo Trời

4.1 Chế độ công hữu là gông xiềng của ma quỷ trói lên cổ nhân dân

4.2 Mô hình kinh tế quyền lực toàn năng như kinh tế kế hoạch là cầm chắc thất bại

5. “Lý luận bóc lột” của chủ nghĩa Marx là luận điệu hoang đường, đảo ngược thiện ác, kích động thù hận

6. Căn nguyên độc hại của chủ nghĩa bình quân tuyệt đối là thù hận và đố kỵ

6.1 Chủ nghĩa bình quân tuyệt đối được kiến lập trên cơ sở thù hận và đố kỵ

6.2 Thúc đẩy quyền bình đẳng về kinh tế là bàn đạp để tiến lên chủ nghĩa cộng sản

6.3 Công đoàn là mũi khoan của tà linh cộng sản dùi vào xã hội tự do

7. “Lý tưởng chủ nghĩa cộng sản” là mồi nhử dẫn dụ nhân loại đi đến hủy diệt

Kết luận: Trọng đức mới có thể “Giàu mà thái bình” 

=========

4. Chế độ công hữu và nền kinh tế kế hoạch là chế độ nô dịch trái với đạo Trời

Trời đã tạo ra con người, ban cho con người trí tuệ và thể lực, và cũng an bài cho con người nguyên lý sống cơ bản: qua việc bỏ công sức lao động mà nhận được của cải vật chất chính đáng. Trong “Tuyên ngôn độc lập” của Mỹ viết: “Chúng tôi cho rằng những chân lý sau đây là hiển nhiên: Đấng sáng tạo đã tạo ra mỗi cá nhân bình đẳng và ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền được sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc”. [1] Những quyền lợi này tất nhiên cũng bao gồm quyền sở hữu và quyền định đoạt đối với tài sản.

Nhưng trong “Tuyên ngôn đảng cộng sản” Marx lại nêu rõ: “Người theo đảng cộng sản có thể khái quát lý luận của mình trong một câu: Tiêu diệt chế độ tư hữu”. [2] Chính là phải thực hiện chế độ công hữu; chế độ công hữu tất nhiên phải xây dựng nền kinh tế kế hoạch, chế độ này về bản chất là chế độ nô dịch trái với đạo Trời, đi ngược lại nhân tính con người. 

4.1 Chế độ công hữu là gông xiềng của ma quỷ trói lên cổ nhân dân

Nhà tư tưởng người Mỹ Fred Schwartz, người tiên phong của phong trào chống cộng sản trong cuốn sách “Bản tính khó đổi của những người theo chủ nghĩa cộng sản” đã kể một câu chuyện về hai cuộc phỏng vấn do một phóng viên thực hiện tại hai xưởng xe hơi của Mỹ và Liên Xô. [3]

Hỏi: “Ai là người sở hữu công xưởng này?

Công nhân đáp: “Chúng tôi là người sở hữu”.

Hỏi: “Vậy ai là chủ sở hữu của mảnh đất này?” 

Công nhân đáp: “Chúng tôi là người sở hữu”.

Hỏi: “Ai là người sở hữu những chiếc xe hơi được sản xuất ra từ công xưởng này?

Công nhân đáp: “Chúng tôi là người sở hữu.

Bên ngoài tòa nhà có một bãi đỗ xe rất lớn, có ba chiếc ô tô đậu ở một góc. Phóng viên hỏi: “Ai là người sở hữu những chiếc xe đang đỗ ở bãi đỗ xe đằng kia?

Công nhân đáp: “Chúng tôi là người sở hữu chúng, nhưng trong đó một chiếc do giám đốc nhà máy sử dụng, một chiếc do bí thư đảng ủy sử dụng, một chiếc do cảnh sát chìm sử dụng”.

Anh phóng viên này lại đến một nhà máy xe hơi ở Mỹ để hỏi những người công nhân ở đó những câu hỏi tương tự. 

Hỏi: “Ai là người sở hữu công xưởng này?

Công nhân đáp: “Henry Ford là người sở hữu.

Hỏi: “Vậy ai là chủ sở hữu của mảnh đất này?

Công nhân đáp: “Henry Ford là người sở hữu.

Hỏi: “Ai là người sở hữu những chiếc xe hơi được sản xuất ra từ công xưởng này?

Công nhân đáp: “Henry Ford là người sở hữu.” 

Bên ngoài tòa nhà có một bãi đỗ xe rất lớn, trong đó chật kín các loại xe ô tô sản xuất tại Mỹ. Phóng viên hỏi: “Ai là người sở hữu những chiếc xe đang đỗ ở bãi đỗ xe đằng kia?

Công nhân đáp: “À, những chiếc xe đó là của chúng tôi đấy.

Câu chuyện này đã thể hiện một cách sống động sự khác nhau về kết quả do chế độ công hữu và chế độ tư hữu mang lại. Trong chế độ công hữu, các loại tài nguyên bị nhà nước chiếm hữu, thành quả lao động cũng bị nhà nước chiếm hữu, vì thế không có bất cứ cơ chế nào khuyến khích, động viên tính tích cực và tinh thần sáng tạo của con người, người ta cũng không có tinh thần trách nhiệm đối với tài sản do họ không có quyền sở hữu tài sản cá nhân. Trên danh nghĩa, tài sản công hữu là sở hữu của nhà nước, là sở hữu của toàn dân, nhưng thực tế lại mặc định do một cá nhân và một giai tầng đặc biệt sở hữu, cuối cùng hình thành những cá nhân có đặc quyền và giai tầng có đặc quyền.

Nhân tố quan trọng nhất của phát triển kinh tế là con người. Chế độ công hữu phong bế động lực và sức sản xuất của con người, tất nhiên sẽ làm giảm tinh thần hăng hái làm việc, giảm hiệu suất lao động, gây lãng phí quá nhiều và sản xuất sụt giảm. Từ những nông trại tập thể ở Liên Xô, những nồi cơm to của công xã nhân dân ở Trung Quốc cho đến cả Campuchia, Bắc Triều Tiên, kết quả mà chế độ công hữu mang lại là tình cảnh thiếu đói ở khắp nơi, hàng triệu người chết vì nạn đói do con người gây ra.

Chế độ tư hữu phù hợp với bản tính tự nhiên của con người, con người lao động để mưu sinh, như con thuyền xuôi theo dòng nước; còn chế độ công hữu lại đi ngược lại bản tính tự nhiên này, như con thuyền bơi ngược dòng vậy. Trong bản tính tự nhiên của con người có mặt thiện, mặt ác, chế độ tư hữu bổ trợ cho “mặt thiện” trong bản tính con người, thúc đẩy con người lao động chăm chỉ và tiết kiệm, còn chế độ công hữu phóng đại “mặt ác” trong nhân tính, gia tăng sự lười biếng và đố kỵ của con người. 

Nhà kinh tế học Hayek cho rằng sự phát triển văn minh phụ thuộc vào việc xem trọng xã hội truyền thống với tài sản tư hữu, xã hội truyền thống đã sản sinh ra chế độ chủ nghĩa tư bản hiện đại và các trật tự phổ biến. Nền văn minh hiện đại cùng các tập tục, quan niệm truyền thống về sở hữu đã tự sinh sôi, tự phát triển một cách có trật tự đời này qua đời khác, cho nên mọi ý đồ khống chế quá trình tự sinh sôi, tự phát triển căn bản này (như chủ nghĩa xã hội) đều thể hiện sự tự phụ chết người, chúng chắc chắn sẽ thất bại. [4]

Nếu nói rằng chế độ tư hữu không thể tách rời tự do, vậy thì chế độ công hữu cũng không thể tách rời toàn trị và cưỡng chế. Chế độ công hữu quốc hữu hóa tất cả tài nguyên, đồng nghĩa với việc tước đoạt đi mọi điều kiện kinh tế đảm bảo cho sự sinh tồn của người dân, biến tất cả mọi người trở thành người phụ thuộc và nô lệ của nhà nước. Bất cứ ai cũng phải nghe theo sự chỉ huy của đảng, bất cứ tư tưởng, tiếng nói nào không nhất trí với chính quyền đều có thể bị chính quyền dễ dàng bóp chết thông qua sự trừng phạt kinh tế, con người không có bất cứ biện pháp nào để chống lại sự nô dịch và can thiệp của quốc gia. Vì thế, việc xóa bỏ chế độ tư hữu tài sản để xây dựng chế độ công hữu tất sẽ tạo thành tập quyền về chính trị, nó là gông xiềng của ma quỷ trói lên cổ nhân dân. Con người sẽ hoàn toàn mất đi tự do, nhất là tự do hướng thiện, chỉ còn cách làm theo tiêu chuẩn đạo đức tà ác của chính quyền cộng sản.

Có người nói, quyền lực không thể tư hữu, tài sản không thể công hữu, nếu không thì cánh cửa họa hoạn lớn sẽ mở ra cho con người. Quả đúng như vậy. 

4.2 Mô hình kinh tế quyền lực toàn năng như kinh tế kế hoạch là cầm chắc thất bại

Dưới sự sắp xếp của cơ chế kinh tế kế hoạch, toàn bộ việc phân bổ sản xuất, tài nguyên và việc phân phối sản phẩm trong xã hội đều hoàn toàn phải thực thi theo kế hoạch thống nhất mang tính mệnh lệnh và cưỡng chế của nhà nước, điều này hoàn toàn khác hẳn so với việc lập kế hoạch của một công ty hay cá nhân bình thường.

Cơ chế kinh tế kế hoạch hiển nhiên có rất nhiều khiếm khuyết. Đầu tiên nó đòi hỏi phải tập hợp một lượng thông tin, số liệu khổng lồ để có thể vạch ra kế hoạch sản xuất hợp lý. Nhưng đối với mỗi quốc gia, đặc biệt là với những quốc gia đông dân hiện nay mà nói, những thông tin, số liệu có liên quan quả là nhiều không tưởng tượng nổi. Như Cục vật giá của Liên Xô phải quy định giá cả cho 2,4 triệu chủng loại hàng hóa. [5] Việc tính toán những thông tin, số liệu khổng lồ này là điều không tưởng, mà bản thân sự phức tạp và biến động của xã hội và con người lại càng không thể giải quyết được thông qua kinh tế kế hoạch thống nhất. [6] Cho dù sử dụng kỹ thuật hiện đại về dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo để xử lý những thông tin khổng lồ này thì vẫn phải đối mặt với vấn đề không thể quy hoạt động tư tưởng của con người thành những biến số và cũng không thể có được các biến số hoàn chỉnh.

Nhà kinh tế học người Áo Ludwig von Mises trong cuốn luận văn nổi tiếng “Tính toán kinh tế của cộng đồng xã hội chủ nghĩa” đã chỉ ra mối quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường như sau: do không có thị trường thực sự, xã hội chủ nghĩa xã hội sẽ không thể có tính toán kinh tế hợp lý, cũng tức là không thể phân phối tài nguyên một cách hợp lý, do đó về khía cạnh kinh tế nó tất nhiên sẽ thất bại. [7] 

Tiếp theo, trong nền kinh tế kế hoạch, nhà nước dùng quyền lực để khống chế sự vận hành kinh tế, dựa vào quyền lực để nắm giữ các tài nguyên kinh tế và quyết định sử dụng những tài nguyên đó như thế nào. Trong quá trình xây dựng kế hoạch, tất nhiên cần có quyền lực tuyệt đối để ra mệnh lệnh thi hành, tất cả các công đoạn đều mang tính cưỡng chế, đây là một cơ chế kinh tế quyền lực. Kinh tế quyền lực tất nhiên trước tiên phải đáp ứng nhu cầu của chính phủ, đáp ứng yêu cầu về chính sách, chứ không xuất phát từ nhu cầu của người dân. Khi sản xuất không phù hợp với quy luật vận hành kinh tế, quyền lực nhà nước chắc chắn sẽ chà đạp và bóp méo sự vận hành kinh tế, từ đó gây ra hàng loạt vấn đề về kinh tế. Trong nền kinh tế kế hoạch, chính phủ với năng lực có hạn lại đóng vai trò một vị Thần toàn năng, nó có thể dùng quyền lực để bóp méo sự vận hành kinh tế, nhưng nó chắc chắn sẽ thất bại.

Chế độ kinh tế kế hoạch và nền chính trị dùng áp lực cao là một thể thống nhất không thể tách rời được. Kế hoạch quốc gia tất nhiên sẽ có khiếm khuyết, vì thế khi xảy ra vấn đề tất yếu sẽ nảy sinh những nghi ngờ từ người dân và nội bộ chính phủ. Người cầm quyền sẽ cảm thấy quyền lực của mình bị đe dọa, dẫn đến kết quả tất yếu là “trấn áp chính trị” và “thanh trừng chính trị”. Mao Trạch Đông đã gạt bỏ quy luật kinh tế mà cưỡng chế thực hiện kế hoạch “Đại nhảy vọt”, kết quả là gây ra nạn đói lớn trong ba năm, khiến quyền lực của bản thân ông ta bị đe dọa, mối đe dọa này lại chính là động cơ quan trọng khiến ông ta phát động cuộc cách mạng văn hóa sau này.

Hậu quả của chế độ công hữu và nền kinh tế kế hoạch được thể hiện rõ qua tình trạng của các công ty nhà nước Trung Quốc. Những năm gần đây, rất nhiều công ty nhà nước ngưng sản xuất, sản xuất cầm chừng, thua lỗ triền miên, không đủ khả năng trả nợ, phải dựa vào trợ giúp của chính phủ và gia hạn nợ của ngân hàng để duy trì hoạt động kinh doanh. Do các công ty này thời gian dài sống bằng hút máu từ nền kinh tế quốc dân nên chúng bị gọi là các “công ty thây ma”. Theo báo cáo, Trung Quốc có 150.000 công ty nhà nước. Ngoại trừ các công ty nhà nước lũng đoạn trong lĩnh vực dầu khí, viễn thông …, lợi nhuận của các công ty nhà nước khác gần như rất thấp hoặc thua lỗ nghiêm trọng. Đến cuối năm 2015, tổng tài sản của các công ty này tương đương 176% GDP, tổng số nợ tương đương 127% GDP, trong khi chỉ tạo ra lợi nhuận chiếm 3,4% GDP. Có nhà kinh tế cho rằng, các công ty thây ma này đang trói buộc nền kinh tế Trung Quốc. [8]

Đồng thời, nền kinh tế kế hoạch đã hoàn toàn tước đoạt quyền tự do kinh tế của con người. Việc nhà nước cưỡng chế sắp xếp cuộc sống của người dân thực chất là biến tất cả mọi người thành công cụ và nô lệ để tà linh cộng sản khống chế mọi mặt đời sống của họ, thực chất là nhốt con người vào một nhà ngục vô hình, cưỡng chế lấy đi ý chí tự do mà Thần ban cho con người, thay đổi thế giới nhân sinh mà Thần ban cho con người. Đây là thể hiện của kinh tế tà linh cộng sản đi ngược với Thần, đi ngược với đạo Trời.

5. “Lý luận bóc lột” của chủ nghĩa Marx là luận điệu hoang đường, đảo ngược thiện ác, kích động thù hận

Marx cho rằng chỉ có lao động mới sáng tạo ra giá trị. Nếu một công ty đầu tư 10 triệu đô la Mỹ vào năm nay và công ty đó bán sản phẩm thu về 11 triệu đô la Mỹ, như vậy khoản lợi nhuận 1 triệu đô la Mỹ đều do công nhân viên của công ty đó tạo ra. Căn cứ theo lý luận của Marx, tư bản không tạo ra giá trị (những tư liệu sản xuất của công ty như cửa hàng, hàng hóa v.v. cũng do vốn tư bản đầu tư mà có), nó chỉ chuyển hóa thành một bộ phận của giá thành. Và giá trị do công nhân viên của công ty tạo ra (11 triệu đô la Mỹ, trong đó bao gồm tiền lương của công nhân viên, cũng chính là giá cả của sức lao động) cao hơn chi phí của công ty, phần lợi nhuận 1 triệu đô la Mỹ thu được chính là giá trị thặng dư do công nhân viên tạo ra. Phần giá trị thặng dư này bị ông chủ chiếm không lấy (không phải bỏ ra gì cả).

Từ đó, Marx tuyên bố rằng chính ông ta đã tìm ra được “bí mật” kiếm tiền của các nhà tư bản, ông ta cho rằng đây chính là căn nguyên tội lỗi của giai cấp tư sản. Nhà tư bản đầu tư xây dựng nhà máy và mở công ty đương nhiên vì muốn có lợi nhuận, theo quan điểm của Marx, điều này không tránh khỏi phải bóc lột giai cấp vô sản. Nguồn gốc của tội ác bóc lột này là do chế độ tư bản chủ nghĩa tạo ra, nó thuộc về toàn bộ giai cấp tư sản. Vì thế Marx đã đưa ra kết luận: muốn tiêu diệt tội ác bóc lột này thì cần phải phá hủy toàn bộ xã hội tư bản chủ nghĩa, cũng chính là tiêu diệt giai cấp tư sản, đem toàn bộ tài sản của các nhà tư sản sung công, xây dựng một xã hội theo chế độ công hữu, tiến hành chủ nghĩa cộng sản.

Lý luận hoang đường của Marx về sự bóc lột chủ yếu thể hiện ở hai phương diện. Đầu tiên, nó phân chia con người thành hai nhóm giai cấp đối lập nhau, chính là giai cấp tư sản nắm giữ tư bản và giai cấp vô sản không nắm giữ tư bản. Thực tế từ xưa đến nay, các giai tầng trong xã hội không hề tồn tại ranh giới không thể vượt qua, giữa các giai tầng luôn luôn luân chuyển qua lại lẫn nhau. Vào thời đó, một người thuộc “giai cấp vô sản” chỉ cần mua cổ phần để có quyền sở hữu một phần công ty nào đó thì người đó đã không còn là giai cấp vô sản nữa. Nếu giai cấp vô sản và giai cấp tư sản có thể tùy ý chuyển đổi như vậy thì việc phân định rõ hai giai cấp như vậy không có ý đồ nào khác ngoài việc kích động đấu tranh.

Mặt khác, thông qua một hệ thống lý luận được dàn dựng công phu, nó đã lừa gạt mọi người dùng tiêu chuẩn mà nó tạo ra để thay thế tiêu chuẩn đạo đức truyền thống, để đánh giá thiện ác, đúng sai. Cũng có nghĩa là việc đánh giá một cá nhân tốt hay xấu không dựa trên phẩm chất đạo đức của người đó mà dựa trên việc người đó có nắm giữ tư bản hay không. Chỉ cần là giai cấp tư sản thì đều có tội, vì họ dựa vào tư bản để bóc lột giai cấp vô sản (công nhân). Vì giai cấp vô sản là giai cấp bị áp bức, bóc lột, do đó họ đương nhiên chiếm được vị trí ưu thế về đạo đức, bất kể họ đối xử thế nào với các nhà tư bản, họ đều có thể vênh váo ngẩng cao đầu. Đây thực chất là biến việc nắm giữ tài sản thành tội ác, biến việc tước đoạt tài sản thành chính nghĩa, biến bạo lực và tước đoạt thành hợp pháp, hoàn toàn làm đảo ngược thị phi, thiện ác, kích động con người làm điều ác. Đảng cộng sản ở Trung Quốc, Liên Xô cũ cho đến các quốc gia theo chủ nghĩa cộng sản Đông Âu cũ đều nhất loạt cướp đoạt đất đai của địa chủ, cướp đoạt công xưởng, nhà máy của nhà tư bản, thậm chí không tiếc tay giết người phóng hỏa, vì tiền mà giết người, mất hết nhân tính, cuối cùng cướp đoạt tài sản của toàn dân, mở rộng ra thành chủ nghĩa khủng bố quốc gia, chính là dưới sự chỉ đạo của lý luận này mà gây ra. Còn những quy phạm đạo đức, tín ngưỡng truyền thống và những lời dạy của các thánh nhân đều bị dán nhãn “giai cấp bóc lột”, trở thành đối tượng có thể bị đánh đổ tùy thích. 

Lý luận của Marx đã bị chỉ trích rộng rãi trong giới triết học và giới kinh tế học. [9] Ở đây xin lấy một vài ví dụ để làm rõ sự hoang đường, vô lý trong lý luận về bóc lột của Marx.

Marx cho rằng lao động tạo ra giá trị, giá trị được quyết định bởi thời gian lao động cần thiết của xã hội. Bản thân lý luận này là sai. Giá trị không phải là thuộc tính khách quan cố hữu của sản phẩm, con người đa phần dựa vào cung và cầu để định ra thuộc tính chủ quan của sản phẩm. Rất nhiều nhà kinh tế học đã từng nghiên cứu về vấn đề nguồn gốc của giá trị, những lý luận của họ hoàn toàn khác với lý luận một chiều phiến diện của Marx về giá trị. Hiện nay đa số các nhà kinh tế học đều cho rằng có rất nhiều nhân tố tham gia tạo nên giá trị, tối thiểu bao gồm đất đai, vốn (tư bản), lao động, khoa học kỹ thuật, tổ chức quản lý, rủi ro đầu tư v.v. Hoạt động kinh tế là một hệ thống phức tạp, liên quan đến các công đoạn sản xuất khác nhau, yếu tố sản xuất khác nhau, và cần có phương thức quản lý nhất định; mỗi người đóng một vai trò khác nhau và không thể thiếu đối với toàn bộ chuỗi sản xuất, họ đều có đóng góp tạo nên “giá trị thặng dư”.

Ví dụ, nếu một nhà tư bản dự định đầu tư 1 triệu đô la Mỹ để thuê hai kỹ sư thiết kế sản xuất một sản phẩm đồ chơi, đồng thời lại thuê một nhân viên phát triển thị trường để quảng bá sản phẩm đồ chơi đó. Hai năm sau, sản phẩm đồ chơi được tiếp nhận rộng rãi, nhà tư bản kiếm được một khoản lợi nhuận lớn 50 triệu đô la Mỹ. Có phải hai kỹ sư và nhân viên phát triển thị trường này đã bỏ rất nhiều thời gian lao động để tạo ra cái gọi là giá trị thặng dư 50 triệu đô la Mỹ này không? Hiển nhiên là không phải. Sở dĩ sản phẩm đồ chơi này có thể kiếm được hàng chục triệu đô la lợi nhuận là vì sáng kiến tạo ra món đồ chơi đã đáp ứng được nhu cầu của mọi người. Tầm nhìn thị trường, năng lực tổ chức, quản lý và dũng khí chấp nhận rủi ro v.v. của nhà tư bản cũng góp phần tạo nên giá trị của sản phẩm đồ chơi đó. Nếu chúng ta giả thiết rằng sáng kiến tạo ra sản phẩm đồ chơi này là của một trong hai kỹ sư, thì khoản lợi nhuận 50 triệu đô la Mỹ này có phải là giá trị thặng dư từ sáng kiến tạo ra sản phẩm đồ chơi của kỹ sư đã bị nhà tư bản chiếm hữu mà không hoàn lại chút nào không? Cũng không phải. Bởi vì nếu kỹ sư này cho rằng sáng kiến tạo ra món đồ chơi của mình không nhận được thù lao xứng đáng thì anh ta hoàn toàn có thể tìm một công ty khác trả một mức lương cao hơn. Trong thị trường tự do, sự cạnh tranh này cuối cùng sẽ đạt đến cân bằng, những công ty cướp đoạt lợi nhuận không hợp lý sẽ bị loại khỏi thị trường. Ngoài ra, vốn tư bản vốn có độ trễ (trong hai năm nhà tư bản cần phải tiết giảm chi phí, không thể chi tiêu đến khoản tiền này), đây cũng là công sức mà nhà đầu tư bỏ ra, do vậy việc nhà đầu tư nhận được thêm khoản thù lao này cũng là chính đáng, giống như cho vay tiền sẽ nhận được tiền lãi vậy.

Tham gia quyết định giá trị của sản phẩm còn có rất nhiều nhân tố “ngẫu nhiên”, những nhân tố “ngẫu nhiên” này chỉ có thể được giải thích một cách hợp lý khi tham chiếu theo văn hóa và tín ngưỡng truyền thống.

Trong một số tình huống, việc giá trị được tăng thêm hay bị tổn thất có thể hoàn toàn không liên quan tới cái gọi là lao động xã hội. Ngày nay, một viên kim cương có giá trị hàng chục triệu đô la Mỹ, nhưng 5.000 năm trước vì xã hội không có nhu cầu nên giá trị của nó có thể không đáng một xu. Một người được thừa kế một mảnh đất hoang từ ông bà tổ tiên, nhưng có thể vì gần đó có một thành phố sắp khởi công hoặc bên dưới mảnh đất đó người ta phát hiện một mỏ đất hiếm mà khiến cho giá trị của mảnh đất có thể đột nhiên tăng gấp trăm lần. Giá trị tăng thêm này không hề cần đến bất kỳ sức lao động nào của con người. Món tài sản khổng lồ từ trên trời rơi xuống này có lúc cũng được gọi là “may mắn” (fortune), trong quan niệm văn hóa truyền thống phương Đông và phương Tây đều cho rằng đây là đặc ân do Thần ban cho con người.

Để chứng minh “tính hợp lý” và “tính tất yếu” của chế độ công hữu, Marx đã lấy giá trị thặng dư làm cơ sở cho lý luận bóc lột, biến hoạt động kinh tế làm giàu bằng kinh doanh chân chính của con người thành những hành vi tiêu cực, vô đạo đức, rót đầy thù hận vào đó, kích động con người phá nát tất cả trật tự kinh tế và chế độ kinh tế hiện có.

Kỳ thực, quan hệ giữa nhà tư bản và công nhân, địa chủ và nông dân là mối quan hệ hai bên cùng có lợi, là quan hệ hợp tác với nhau, phụ thuộc lẫn nhau, là quan hệ anh sống thì tôi cũng sống. Marx đã ra sức tuyệt đối hóa, cực đoan hóa, khuếch đại không giới hạn mâu thuẫn giữa họ, biến thành mối quan hệ đối địch người sống kẻ chết. Thực ra, trong số những nhà tư bản cũng có người tốt, người xấu, trong số những công nhân cũng vậy. Trong hoạt động kinh tế, thực sự cần phải vạch trần và trừng phạt không phải nhà tư bản, cũng không phải là công nhân mà là một số kẻ phá hoại, làm tổn hại đến sự vận hành bình thường của nền kinh tế, để đánh giá một người, chúng ta nên căn cứ vào phẩm chất đạo đức và hành vi của người đó chứ không phải căn cứ vào tài sản, địa vị của họ.

Con người có thể bằng nỗ lực của bản thân để cải biến tình hình kinh tế và địa vị của mình. Công nhân có thể thông qua tích lũy tài sản để trở thành nhà đầu tư, nhà đầu tư cũng có thể vì đầu tư thất bại mà trở thành người vô sản, xã hội chính là không ngừng biến động, giống như những con sóng dập dềnh trên mặt hồ. Người lao động và nhà đầu tư trong xã hội hiện đại thường xuyên thay thế vai trò cho nhau, hoặc đồng thời kiêm cả hai vai trò này. Họ mang lợi nhuận mà cả hai cùng tạo ra đầu tư vào sản xuất, cung cấp cơ hội việc làm, gia tăng của cải xã hội, tạo phúc cho quảng đại quần chúng. Ngay cả người sáng lập phong trào công đoàn Mỹ cũng nói: “Tội nặng nhất của người lao động là để cho một công ty không có lợi nhuận.” [10]

“Lý luận giá trị thặng dư” này là một lý luận hoang đường, nó dán nhãn “bóc lột” lên tất cả hoạt động kinh doanh chính đáng của người sở hữu đất đai và nhà tư bản, kích động ngọn lửa ngùn ngụt thù hận và đấu tranh, nuốt chửng hàng nghìn hàng vạn sinh mệnh con người.

6. Căn nguyên độc hại của chủ nghĩa bình quân tuyệt đối là thù hận và đố kỵ

6.1 Chủ nghĩa bình quân tuyệt đối được xây dựng trên cơ sở thù hận và đố kỵ

Chủ nghĩa cộng sản tuyên truyền cái kết quả bình đẳng “chủ nghĩa bình quân tuyệt đối”, một mặt nó tỏ ra vô cùng quang minh chính đại, khiến rất nhiều người tin tưởng nó một cách mù quáng, mặt khác nó lại kích động sự thù hận và đố kỵ của con người. Biểu hiện về phương diện kinh tế là người ta không thể khoan dung với những người giàu có hơn mình, những người có cuộc sống tốt hơn mình, có công việc nhẹ nhàng hơn mình, có điều kiện tốt hơn mình. Người ta muốn mọi thứ phải bình đẳng, anh có tôi cũng phải có, anh có thể đạt được thì tôi cũng phải đạt được, điều đó được gọi một cách đẹp đẽ là “mọi người đều bình đẳng”, “thế giới đại đồng”.

Tư tưởng chủ nghĩa bình quân tuyệt đối ít nhất thể hiện ở hai phương diện. Thứ nhất, đối với những người chưa đạt được trạng thái “bình đẳng”, việc xúi giục họ bất mãn với địa vị kinh tế của mình là linh đan của ma quỷ để kích động thù hận. Nó kích thích tư tưởng không an phận của con người, người khác có thì mình cũng phải có, hơn nữa còn dùng thủ đoạn không chính đáng thậm chí dùng bạo lực để cướp đoạt, biểu hiện cực đoan là phá hủy tài sản của người khác, dùng thủ đoạn bất hợp pháp để giết người cướp của, độc ác nhất là phát động cách mạng bạo lực.

Để xúi giục sự bất mãn của con người, Marx phân chia xã hội thành hai giai cấp đối lập hoàn toàn dựa trên quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, ở nông thôn là địa chủ và nông dân, ở thành thị là nhà tư bản và công nhân, khiến con người vì đố kỵ mà thù hận những người đối lập với mình, khiến giai cấp này phải lấy mạng giai cấp kia. Địa chủ thì giàu, nông dân thì nghèo, vậy làm thế nào? Cướp! Địa chủ dựa vào cái gì mà giàu? Muốn giàu thì mọi người cùng giàu. Thế là, Trung cộng hô hào nông dân làm “cải cách ruộng đất”, chính là “đánh thổ hào để phân chia ruộng đất”, cướp đoạt ruộng đất của địa chủ, ai không chịu thì giết, còn phải diệt cỏ tận gốc. Đảng cộng sản trước tiên kích động lũ côn đồ, lưu manh lười nhác đi gây chuyện, “Giường khảm ngà của tiểu thư, phu nhân nhà giàu cũng có thể giẫm đạp lên.” [11] Tiếp đến cưỡng ép tất cả những người nông dân đứng lên đấu tranh với địa chủ, hàng triệu địa chủ bị rơi đầu.

Thứ hai, đối với những người cơ bản đã có trạng thái “bình đẳng”, tư tưởng này thể hiện ra có gì tốt thì mọi người chia đều nhau, ai lộ diện thì công kích người đó, làm nhiều hay làm ít đều như nhau, làm hay không làm cũng như nhau.

Trên bề mặt xem ra mọi người đều giống nhau, nhưng con người có sự khác nhau về cá tính, trí lực, thể lực, chuẩn mực đạo đức, nghề nghiệp, chức vụ, giáo dục, hoàn cảnh sống, mức độ chịu khổ, nhẫn nại, tinh thần sáng tạo v.v., đóng góp cho xã hội cũng khác nhau, sao có thể đòi hỏi kết quả giống nhau được? Nhìn từ góc độ này thì không bình đẳng mới là bình đẳng thực sự, bình đẳng mà chủ nghĩa cộng sản truy cầu mới là bất bình đẳng và bất công thật sự. Người xưa Trung Quốc nói rằng “Thiên đạo thù cần” (đạo trời đền đáp cho người cần cù phấn đấu vươn lên), ông Trời sẽ căn cứ theo nỗ lực mà mỗi cá nhân bỏ ra để đền đáp cho họ tương xứng. Sự bình đẳng tuyệt đối không thể tồn tại trong cuộc sống hiện thực.

Dưới sự chỉ đạo của tư tưởng chủ nghĩa bình quân tuyệt đối, làm việc xấu và làm việc tốt cũng như nhau, chăm chỉ làm việc và lười nhác cũng như nhau. Kẻ lười nhác giả tạo thì được quan tâm, người có tài năng, cần cù lao động thì bị trừng phạt, thậm chí bị người khác oán hận và kỳ thị, mỗi cá nhân đều đi chậm lại, nhìn vào người đi chậm nhất mà sánh bước, tạo nên hiện tượng kỳ quái “kinh tế đồng loạt đi xuống”. Kỳ thực là muốn mọi người đều trở nên lười biếng, đều chờ người khác bỏ công sức, còn bản thân thì nhân tiện hưởng lợi, hoặc không làm mà hưởng, hoặc lấy thứ của người khác mà mình không có, gây nên hiện tượng “đạo đức đồng loạt trượt dốc”.

Cái hận và đố kỵ thúc đẩy “chủ nghĩa bình quân tuyệt đối” là căn nguyên độc hại trong quan điểm kinh tế của chủ nghĩa cộng sản. Thiện ác trong con người là đồng thời tồn tại, tín ngưỡng phương Tây nói về bảy loại tội, văn hóa phương Đông nói con người có Phật tính và ma tính, biểu hiện của Phật tính là thiện lương, chịu khổ, biết nghĩ cho người khác; biểu hiện của ma tính là ích kỷ, lười biếng, đố kỵ, ác độc, cường bạo, cướp bóc, dựng chuyện thị phi, giả dối, thù hận, phát cuồng, dâm loạn, bạo ngược, coi mạng người như cỏ rác, không làm mà hưởng v.v. Chế độ kinh tế cộng sản cố ý kích phát ma tính của con người, phóng đại mặt ác của con người như đố kỵ, tham lam, lười biếng v.v. khiến con người đánh mất bổn phận làm người phải có, vứt bỏ giá trị quan truyền thống hàng nghìn năm qua. Nó dẫn dụ, kích thích những thứ xấu xa nhất trong nhân tính con người, từ đó làm động lực ban đầu thúc đẩy cách mạng cộng sản.

Adam Smith đã nói trong cuốn “Lý thuyết về tình cảm đạo đức”: đạo đức là cơ sở cho sự thịnh vượng của nhân loại. Việc tuân thủ một số quy phạm đạo đức phổ biến “là cơ sở cho sự tồn tại của xã hội nhân loại chúng ta, nếu như điều đó không ăn sâu vào trong tâm trí con người, xã hội của chúng ta sẽ sụp đổ trong chớp mắt”. [12] Lawrence Kudlow, chủ tịch Hội đồng cố vấn kinh tế Mỹ cho rằng sự thịnh vượng về kinh tế và đạo đức tồn tại song song với nhau. Trong lĩnh vực kinh tế, chỉ khi con người làm theo nguyên tắc đạo đức thì thị trường tự do và nền kinh tế mới có thể vận hành tốt. Ông viết: “Nếu chúng ta có thể kiên trì tuân theo đạo đức và giá trị quan, những điều mà chúng ta gọi là ‘nguyên tắc hàng đầu’, là bản chất lập quốc của nước Mỹ … thì đất nước này sẽ không ngừng phát triển.” [13]

Hậu quả mà chủ nghĩa bình quân tuyệt đối gây ra cho các quốc gia trên thế giới không nằm ngoài dự liệu của con người. Chủ nghĩa bình quân của cộng sản sử dụng chính quyền quốc gia để tước đoạt tài sản tư hữu của người dân, một mặt củng cố thêm quyền lực của ma quỷ, mặt khác lại khiến cho rất nhiều người bớt đi cảm giác tội lỗi, tăng thêm cảm giác thỏa mãn, dương dương tự đắc do chiếm không tài sản của người khác, đây chính là thủ đoạn mê hoặc con người của ma quỷ.

6.2 Thúc đẩy quyền bình đẳng về kinh tế là bàn đạp để tiến lên chủ nghĩa cộng sản

Dưới ảnh hưởng của tư tưởng bình quân tuyệt đối, xã hội phương Tây rầm rộ kêu gọi “xã hội công bằng”, yêu cầu “quy định mức lương tối thiểu”, “xóa bỏ tình trạng bất bình đẳng”, “cùng làm cùng hưởng” v.v.. Những yêu cầu này đều hướng tới sự bình đẳng về kết quả, ẩn chứa đằng sau đó là nhân tố tà linh cộng sản, nếu không chú ý, người ta sẽ dễ dàng rơi vào cạm bẫy của ma quỷ.

Ma quỷ đứng đằng sau những người cổ xúy các phong trào kháng nghị này, nó kỳ thực không hề quan tâm liệu những nhóm người yếu thế này có được bình đẳng hay không, địa vị của họ có được cải thiện hay không, nó chỉ lợi dụng những phong trào này để kích động tâm lý bất mãn của con người mà thôi. Nếu thành công thì nó lại càng được thể tiến tiếp, lại tiếp tục đòi hỏi quyền bình đẳng trong lĩnh vực mới, vĩnh viễn không có điểm dừng. Nếu không thành công, nó liền tạo ra một cuộc chiến dư luận và tiếp tục kích động tâm lý bất mãn, gia tăng quan niệm về quyền bình đẳng của mọi người, gây dư luận rộng rãi trong xã hội. Tà linh dùng nhiều phương thức khác nhau kích động sự bất mãn của mọi người trong nhiều lĩnh vực xã hội, một khi những bất mãn này cộng hưởng với nhau, đồng thời bộc phát thì sẽ khiến xã hội càng thêm hỗn loạn và tạo thời cơ cho cách mạng nổ ra. Kẻ thao túng đằng sau luôn có thể tìm ra một bộ phận yếu thế nhất trong cộng đồng, rồi kích động những người này yêu cầu quyền bình đẳng về kinh tế, quá trình này có thể liên tục lặp đi lặp lại, nếu không đạt được “bình đẳng tuyệt đối” thì nhất quyết không dừng lại. Những cái gọi là kháng nghị đòi “công bằng xã hội” đã trở thành bàn đạp của tà linh cộng sản để hướng đến chủ nghĩa cộng sản. Dưới sự thao túng của tà linh cộng sản, một sự thực không thể chối cãi là các quốc gia phương Tây đang dần dần bị chủ nghĩa cộng sản nuốt chửng.

Trong thực tiễn, những biện pháp cụ thể này thường không mang lại kết quả như mong muốn, đối tượng cần được bảo vệ lại bị kỳ thị và đả kích. Ví dụ như quy định mức lương tối thiểu, bề ngoài là bảo vệ quyền lợi của công nhân nhưng lại khiến cho rất nhiều nhà máy phải cân nhắc vấn đề giá thành quá cao mà không thuê công nhân nữa, dẫn đến nhiều công nhân hơn bị thất nghiệp. Kỹ năng của con người không phải do một ngày mà có, mà cần có một quá trình không ngừng tích lũy, nâng cao tay nghề. Nếu cứ nhất quyết phải định ra mức lương tối thiểu thì trên thực tế đã tước đi cơ hội của mọi người được làm các công việc có tay nghề thấp, tiền lương thấp, dần dần qua quá trình rèn luyện mà nâng cao tay nghề và được trả lương cao hơn. Việc đặt ra mức lương tối thiểu vừa vi phạm quy luật kinh tế, cũng vừa dẫn đến việc chính phủ can thiệp quá sâu vào nền kinh tế.

Thường có người dùng cái cớ “cùng làm cùng hưởng” để yêu cầu phải cải cách xã hội. Họ viện dẫn các số liệu thống kê để chứng minh mức lương bình quân của nam giới người da đen thấp hơn của người da trắng, rồi mức lương bình quân của phụ nữ cũng thấp hơn của nam giới, sự khác biệt về thu nhập này là kết quả của sự kỳ thị chủng tộc và kỳ thị giới tính. Trên thực tế, sự so sánh mơ hồ, chung chung này là bất hợp lý, nếu so sánh giữa những nhóm người giống nhau thì kết quả sẽ hoàn toàn khác. Có học giả nghiên cứu phát hiện rằng những gia đình người da đen có trình độ giáo dục đại học trở lên thì thu nhập của họ cũng cao ngang bằng gia đình người da trắng. [14] Tuy nhiên tỷ lệ những gia đình người da đen như vậy trong cộng đồng khá ít, nên người ta sẽ thấy sự chênh lệch khá lớn về mức lương bình quân giữa nhóm người da đen và người da trắng. Sự so sánh này vốn dĩ là bình thường, nhưng khi tà linh cộng sản đứng đằng sau kích động đấu tranh, người ta lại thể hiện sự mù quáng có mục đích. 

Tà linh không hề quan tâm đến hạnh phúc của nhóm người yếu thế, nó muốn lợi dụng những khẩu hiệu làm mê hoặc con người để đưa nhân loại bước trên con đường cộng sản, con đường đi đến hủy diệt.

6.3 Công đoàn là mũi khoan của tà linh cộng sản dùi vào xã hội tự do

Ngày nay người ta đều biết rằng ngành sản xuất của Mỹ đã mất đi nhiều cơ hội việc làm, nhưng rất nhiều người không biết rằng công đoàn là một trong những tác nhân chủ yếu gây ra sự thất nghiệp trong ngành công nghiệp chế tạo. Công đoàn vốn tự xưng là hiệp hội trợ giúp cho giai cấp công nhân “được hưởng phúc lợi”, vì sao nó lại trở thành kẻ cầm đầu gây tổn hại tới lợi ích của công nhân? Chúng ta hãy nhìn lại lịch sử quá trình phát triển và sứ mệnh của công đoàn để hiểu rõ điều này.

Công đoàn ban đầu là tổ chức do những người lao động không có kỹ thuật và kỹ thuật thấp thành lập một cách tự phát để đàm phán với nhà tư bản sử dụng lao động. Ở một mức độ nào đó, nó giúp điều tiết và giải quyết sự đối lập và mâu thuẫn giữa công nhân và nhà tư bản. Nhưng tà linh cộng sản đã biến công đoàn trở thành công cụ chính sách, công cụ để tiến hành phong trào chủ nghĩa cộng sản.

Khi bàn về vấn đề công đoàn, Engels đã nêu rõ: “Đấu tranh tăng lương, giảm giờ làm, và toàn bộ hoạt động mà các công đoàn đang làm hiện nay không phải là mục đích của bản thân nó mà chỉ là một thủ đoạn, là một thủ đoạn cực kỳ cần thiết và hữu hiệu, nhưng đó chỉ là một trong rất nhiều thủ đoạn để đạt được mục đích cao hơn, chính là xóa bỏ hoàn toàn chế độ thuê mướn lao động.” [15]

Lenin cho rằng thành lập công đoàn và tranh thủ địa vị hợp pháp của công đoàn là biện pháp quan trọng để giai cấp vô sản giành lấy quyền lãnh đạo cách mạng dân chủ từ tay giai cấp tư sản, “công đoàn sẽ trở thành xương sống của đảng và là lực lượng nòng cốt trong đấu tranh với giai cấp tư sản”. Lenin còn đề xuất, công đoàn là “trường học của chủ nghĩa cộng sản”,  là biện pháp để xây dựng mối liên hệ giữa quần chúng và đảng cộng sản, thông qua các công tác hàng ngày mà thuyết phục quần chúng, thuyết phục họ từ chủ nghĩa tư bản quá độ sang chủ nghĩa cộng sản, là “bồn chứa nước” của chính quyền quốc gia”. [16]

Vào nửa cuối thế kỷ 19, chủ nghĩa cộng sản và phe cánh tả đã lợi dụng công đoàn để kích động công nhân bãi công quy mô lớn, có lúc đưa ra những yêu sách hà khắc, thậm chí còn dùng đến cả những thủ đoạn bạo lực, phá hoại máy móc, công xưởng v.v., trở thành vũ khí lợi hại của phong trào chủ nghĩa cộng sản để chống lại chủ nghĩa tư bản cũng như trở thành công cụ quan trọng để tiến hành “đấu tranh” chính trị. Tà linh cộng sản chỉ sợ thiên hạ chưa đủ loạn, như thế nó mới có thể nhân lúc loạn mà trục lợi, đục nước béo cò.

Tháng 10 năm 1905, công nhân ở Nga tổ chức cuộc đại bãi công chính trị trên toàn nước Nga, số người tham gia lên đến 1,7 triệu người, khiến kinh tế toàn quốc tê liệt. Trong thời kỳ đó, Xô-viết, một tổ chức công đoàn cấp tiến hơn đại biểu cho công nhân được thành lập, tổ chức này được Lenin gọi là “manh nha của chính phủ cách mạng”, sẽ trở thành “trung tâm chính trị” của toàn nước Nga, cũng có nghĩa là chính quyền Xô-viết được xây dựng sau biến cố chính trị tháng 10 năm 1917 có nguồn gốc từ tổ chức công đoàn. [17]

Công đoàn ở các quốc gia phát triển phương Tây cũng bị tà linh cộng sản thâm nhập sâu rộng và lợi dụng. Công nhân và nhà tư bản vốn có quan hệ cộng sinh, nhưng tà linh cộng sản lại muốn ra sức kích động, cường điệu hóa mâu thuẫn giữa họ, một trong những công cụ quan trọng của nó chính là công đoàn. Công đoàn biến việc mặc cả giá giữa người lao động và nhà tư sản thành cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, nhấn mạnh mối quan hệ đối lập này, đồng thời hợp pháp hóa cho sự tồn tại của nó. Vì thế, nó không ngừng kích động công nhân bất mãn, chỉ trích những vấn đề của nhà tư bản, tạo ra mâu thuẫn, kích động xung đột là bí quyết quan trọng hàng đầu cho sự sinh tồn của nó.

Ở một số phương diện nào đó, công đoàn cũng có thể mang lại cho công nhân lợi ích trong thời gian ngắn, nhưng nhìn từ lợi ích kinh tế dài hạn thì vật hy sinh lớn nhất trong các phong trào công đoàn do chủ nghĩa cộng sản chỉ đạo không phải là các nhà tư bản, mà là bản thân người công nhân, vì nếu các doanh nghiệp của nhà tư bản bị làm cho sụp đổ thì tổn thất lớn nhất chính là công nhân bị mất đi việc làm. Trên bề mặt thì công đoàn mang lại cho công nhân nhiều lợi thế hơn, nhưng lại khiến doanh nghiệp mất đi năng lực cạnh tranh. Nói một cách cụ thể, có nguyên nhân từ hai phương diện.

Thứ nhất, công đoàn hô hào bảo vệ quyền lợi của công nhân, khiến cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc sa thải những nhân viên làm việc không chăm chỉ và hiệu suất lao động không cao, điều này vô hình trung đã dung túng cho những nhân viên lười biếng và không có ý chí tiến thủ, gây nên sự bất bình đẳng đối với những nhân viên làm việc tốt, không kích thích được tính tích cực của nhân viên. Nhân lực là nhân tố quan trọng nhất đối với sự phát triển của công ty, sự bảo hộ của công đoàn đối với những nhân viên yếu kém sẽ khiến doanh nghiệp mất đi năng lực cạnh tranh.

Thứ hai, công đoàn hô hào đòi phúc lợi (bao gồm lương hưu, bảo hiểm y tế v.v.), không ngừng gia tăng gánh nặng cho công ty, cuối cùng dẫn đến công ty buộc phải cắt giảm tiền đầu tư cho nghiên cứu phát triển, vì thế mà giảm sức cạnh tranh, hoặc buộc phải tăng giá bán sản phẩm, từ đó gây tổn hại đến lợi ích người tiêu dùng. Nghiên cứu chỉ ra đây chính là lý do vì sao các công ty không có công đoàn như Toyota và Honda có thể tạo ra các sản phẩm xe hơi có tính năng tốt hơn và giá thành rẻ hơn, trong khi các hãng xe hơi có công đoàn như Detroit của Mỹ lại không thể làm được như vậy. [18]

Edwin J. Feulner, người sáng lập Quỹ di sản Mỹ (Heritage Foundation) nhận xét về công đoàn như sau: “Dường như các công ty đang gánh trên mình một gánh nặng rất lớn, khiến các công ty mất đi tính linh hoạt, không thể phản ứng nhanh nhạy với những biến đổi nhu cầu của thị trường”. [19]

Tình hình trên trở nên nghiêm trọng hơn do sự lũng đoạn thị trường lao động của công đoàn. Công đoàn có thể ảnh hưởng rất lớn đến những quyết sách của doanh nghiệp, đưa ra những yêu cầu bất hợp lý, có lúc là những yêu cầu rất hà khắc. Nếu doanh nghiệp không đáp ứng được yêu cầu của công đoàn, nó sẽ dùng đến các thủ đoạn “đấu tranh”, bao gồm các kháng nghị bãi công và kích động các phong trào xã hội, khiến các doanh nghiệp khó bề ứng phó, rơi vào hoàn cảnh khó khăn thậm chí bước vào đường cùng.

“Liên hiệp công nhân xe hơi” (United Auto Worker) là tổ chức công đoàn đại diện cho công nhân hãng xe Detroit, họ thường xuyên tổ chức cho công nhân bãi công. Trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, công đoàn đấu tranh cho tiền lương cộng với phúc lợi của công nhân lên tới 70 đô la Mỹ một giờ, kết quả là khiến cho ngành công nghiệp chế tạo ô tô của Mỹ gần như phá sản. [20]

Do sự dẫn dắt của công đoàn làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp, cuối cùng dẫn tới giảm cơ hội việc làm. Từ năm 1977 đến năm 2008, cơ hội việc làm trong những doanh nghiệp chế tạo có công đoàn mất đi 75%, nhưng việc làm trong những doanh nghiệp chế tạo không có công đoàn lại tăng lên 6%. Tình huống tương tự cũng xảy ra với các doanh nghiệp ngoài ngành chế tạo. Lấy ví dụ ngành xây dựng, ngành xây dựng của Mỹ từ cuối những năm 70 của thế kỷ trước tới nay luôn tăng trưởng, số lượng việc làm trong các doanh nghiệp xây dựng không có công đoàn từ năm 1977 đến nay đã tăng trưởng 159%, nhưng cơ hội việc làm trong công ty xây dựng có công đoàn lại mất đi 17%. [21]

Ngoài ra, công đoàn là công cụ của chủ nghĩa bình quân mà tà linh chủ nghĩa cộng sản tạo ra trong nội bộ doanh nghiệp. Nghiên cứu của Quỹ di sản Mỹ cho thấy, công đoàn yêu cầu doanh nghiệp căn cứ theo năm công tác của từng nhân viên (tương đương với “kinh nghiệm công tác” của các nước chủ nghĩa xã hội) để trả lương tương ứng, mà không xem xét đến những cống hiến và thái độ làm việc của nhân viên trong doanh nghiệp. Hậu quả sau cùng của công đoàn là làm giảm tiền lương của nhân viên có hiệu suất làm việc cao trong khi tăng tiền lương cho nhân viên có hiệu suất làm việc thấp. [22] Đây chính là sự kế thừa chủ nghĩa bình quân tuyệt đối của chủ nghĩa cộng sản, nó đồng nghĩa với việc phân phối lại tài sản của nhân viên, chẳng qua nó được tiến hành trong phạm vi nội bộ doanh nghiệp mà thôi. Sự can thiệp vào chính sách nội bộ của doanh nghiệp và lũng đoạn thị trường lao động này thực chất là phá hoại thị trường tự do. Những tuyên truyền cứng nhắc của nó mang lại cho công nhân những bảo đảm tốt nhất về phúc lợi và công việc cuối cùng luôn gây tổn hại cho doanh nghiệp cũng như cho toàn nền kinh tế. Một cuộc điều tra ý kiến người dân năm 2005 cho thấy mặc dù đa số gia đình thuộc công đoàn đều không tán thành công đoàn Mỹ, nhưng nguyên nhân vì sao họ không tán thành lại chưa từng được đại hội công đoàn hoặc phương tiện truyền thông của công đoàn đem ra thảo luận. [23]

Nhìn từ mọi khía cạnh, những công nhân làm việc chăm chỉ cần cù thực sự lại trở thành vật hy sinh, còn tà linh cộng sản lại trở thành kẻ thắng lớn trong hoạt động công đoàn. Về cơ bản, tà linh cộng sản muốn lợi dụng công đoàn để về lâu dài dần dần phá hủy nền kinh tế tự do của chủ nghĩa tư bản, lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, phá hoại phương thức sinh hoạt bình thường của nhân loại.

Các công đoàn bị chủ nghĩa cộng sản thâm nhập và các công đoàn nghe theo sự chỉ đạo của “phong trào tiến bộ” đã biến thành một tập đoàn lợi ích, tựa như một công ty lớn hoạt động vì lợi nhuận, cấp lãnh đạo có lợi ích cá nhân rất lớn trong đó, hiện tượng tham nhũng thường bị mọi người chỉ trích. [24] Công đoàn đã trở thành công cụ của phe cánh tả để đấu tranh với chủ nghĩa tư bản tại các quốc gia dân chủ, nó luôn đòi hỏi “xã hội chính nghĩa”, đòi hỏi “công bằng”, tạo nên gánh nặng phúc lợi cực lớn, gây trở ngại lớn đối với việc cải cách và nâng cao hiệu suất của ngành công nghiệp chế tạo, ngành dịch vụ, giáo dục, các bộ ngành chính phủ. Khi thời cơ chưa chín muồi, nó sẽ nằm phục chờ thời, khi thời cơ đến nó sẽ lập tức xông lên, tạo ra những phong trào xã hội lớn. Công đoàn là mũi khoan của tà linh cộng sản dùi vào xã hội tự do.

7. “Lý tưởng chủ nghĩa cộng sản” là mồi nhử dẫn dụ nhân loại đi đến hủy diệt

Mặc dù lý luận của chủ nghĩa cộng sản đầy rẫy sơ hở và mâu thuẫn nội tại, nhưng rất nhiều người lại bị nó dụ dỗ, lừa gạt. Bởi vì những người đại diện cho tà linh cộng sản ở nhân gian như Marx v.v. đã vẽ nên cho con người thế gian một viễn cảnh thiên đường tươi đẹp của chủ nghĩa cộng sản, nó có tính mê hoặc cực lớn. Những từ ngữ của nó như: “của cải vật chất cực kỳ phong phú”, “chuẩn mực đạo đức cực kỳ cao”; thành viên trong xã hội “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”; không có chế độ tư hữu, không có khoảng cách giàu nghèo, không có giai cấp thống trị, không có bóc lột; mọi người đều tự do, bình đẳng, tài năng của con người có thể phát triển toàn diện; mọi người sống cuộc sống hạnh phúc, vô cùng tươi đẹp. Những từ ngữ lừa người này lúc mới đầu đã từng hấp dẫn rất nhiều người vì nó mà phấn đấu; hiện nay cũng có không ít người phương Tây chưa từng có những kinh nghiệm đau thương khi sống ở những quốc gia cực quyền cộng sản, nên họ vẫn ôm giữ những suy nghĩ hão huyền này, họ tiếp tục thổi lửa cho chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội.

Trên thực tế, tất cả những tư tưởng mà chủ nghĩa Marx đề xuất đều chỉ là không tưởng.

Chủ nghĩa Marx tự cho rằng của cải vật chất của chủ nghĩa cộng sản sẽ cực kỳ phong phú. Nhưng dục vọng của con người là không có giới hạn, nhu cầu của con người cũng không có giới hạn, với sự hạn chế của nhân loại về tri thức, thời gian làm việc và nguồn tài nguyên hữu hạn của trái đất, sự thiếu thốn và khan hiếm là điều bình thường và cũng là điều tất nhiên. Đây cũng là xuất phát điểm căn bản nhất của tất cả các nghiên cứu kinh tế học. Nếu như không bị hạn chế bởi những điều kiện này, người ta sẽ không phải tìm kiếm xem phương thức sản suất nào mới có hiệu quả cao, mà có thể tùy ý lãng phí, bởi vì của cải của xã hội phong phú, dùng mãi không hết.

Chủ nghĩa Marx tự cho rằng chuẩn mực đạo đức của con người trong xã hội chủ nghĩa cực kỳ cao. Nhưng trong con người đồng thời có thiện và ác, muốn chuẩn mực đạo đức nâng cao thì cần có sự dẫn dắt của tín ngưỡng và giá trị quan truyền thống và sự nỗ lực tu dưỡng của mỗi cá nhân. Chủ nghĩa Marx tuyên dương thuyết vô thần và đấu tranh giai cấp, khiến mặt ác của con người bị phóng đại vô hạn. Mọi người không thể có tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng chỉ là công cụ chính trị của đảng cộng sản mà thôi. Hơn nữa, tôn giáo bị lợi dụng để bảo vệ chính quyền bạo lực và dẫn dắt con người đi sai đường, phản đối Thần, bài xích Thần, khiến con người càng ngày càng xa rời Thần. Con người ngày nay khi không có chính tín vào Thần và không có ước thúc bản thân thì đạo đức chỉ có thể trượt trên dốc lớn. Ngoài ra, Marx, Engels, Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, ai cũng là bạo chúa, ngông cuồng, dâm loạn, không hề có chút đạo đức nào, kỳ vọng chuẩn mực đạo đức của họ nâng cao lên còn khó hơn là leo cây tìm cá, chỉ là chuyện hoang đường.

Chủ nghĩa Marx cũng tuyên bố rằng mọi người đều bình đẳng, nhưng như đã nói ở trên, chủ nghĩa cộng sản tất nhiên sẽ dẫn đến chủ nghĩa cực quyền, quyền lực là cơ sở để phân bổ tài nguyên, nhưng phân phối quyền lực của chủ nghĩa cực quyền lại là bất bình đẳng nhất, vì thế việc phân bổ tài nguyên cũng là bất bình đẳng nhất. Ở tất cả các quốc gia theo chủ nghĩa xã hội, mọi người đều thấy được sự tồn tại của giai cấp đặc quyền, sự chênh lệch giàu nghèo và việc chính quyền áp bức dân thường.

Chủ nghĩa Marx lừa gạt con người rằng phải “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Nhưng chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế quyền lực, mọi thứ đều nhảy múa theo cây gậy chỉ huy của quyền lực, các thành viên trong xã hội ngay cả quyền tự do cơ bản còn không có, thì căn bản không thể làm theo năng lực. Mà nhu cầu của con người là vô tận, ngay cả người giàu nhất trên trái đất cũng không thể có được tất cả những thứ mà người đó muốn, huống chi là người bình thường? Ngay cả sản phẩm cực kỳ phong phú còn không có được thì việc hưởng theo nhu cầu càng không thể xảy ra.

Tà linh cộng sản cũng lừa gạt con người rằng nó muốn “tài năng của các thành viên trong xã hội được phát triển toàn diện”. Chủ nghĩa Marx tuyên bố phân công tạo ra sự khác biệt. Trên thực tế, phân công là điều kiện tất yếu cho sự tồn tại của xã hội. Đúng như lập luận của Adam Smith trong cuốn “Tài sản quốc gia”, phân công lao động sẽ thúc đẩy năng lực sản xuất tăng trưởng mạnh mẽ và kinh tế thịnh vượng. Sự khác biệt do phân công lao động mang lại không nhất định là mâu thuẫn, phân công lao động cũng không khiến con người trở nên dị thường, đơn điệu và không còn nhân tính. Con người làm việc trong các ngành các nghề đều có thể không ngừng nâng cao đạo đức, cống hiến cho xã hội, mang lại hạnh phúc cho người khác.

Kinh tế quan của chủ nghĩa cộng sản là một thể chế kinh tế phản đạo đức, thực tiễn đã minh chứng đầy đủ rõ ràng rằng nó gây tai hại cho những quốc gia chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Các phương thức kinh tế chủ nghĩa cộng sản biến tướng ở xã hội phương Tây cũng gây nhiều tổn hại cho xã hội của họ. Chủ nghĩa cộng sản không thể tránh khỏi tạo nên chính quyền bạo lực cực quyền cùng với nghèo đói, bần cùng, hơn nữa nó không ngừng kích động ma tính trong tâm con người trỗi dậy, hủy diệt đạo đức của con người, nó là trào lưu đi ngược lại truyền thống, tà ác nhất, xấu xa nhất trong lịch sử nhân loại.

Nhìn lại lịch sử 100 năm của chủ nghĩa cộng sản, những sự thực tàn khốc hết lần này đến lần khác phơi bày cho con người thế gian thấy đó là lịch sử kích động thù hận, lịch sử tàn sát và lịch sử tội ác. Tất cả các quốc gia cực quyền cộng sản đều là những quốc gia bạo lực thảm sát hung hãn nhất, những quốc gia mà nhân dân mất quyền tự do và nhân quyền cơ bản nhất. Chúng cực kỳ hiếu chiến, vơ vét bóc lột nhân dân để vỗ béo một thiểu số tập đoàn thế lực cầm quyền, làm khổ công nhân, nông dân và quảng đại dân chúng.

Phong trào cộng sản không chỉ làm mất đi những sinh mệnh quý giá mà còn cướp sạch nền văn hóa và đạo đức khổng lồ đã từng có. Đặc biệt là Trung Quốc dưới chế độ cộng sản, đạo đức đã trượt dốc đáng sợ, vượt xa sức tưởng tượng của con người, đến cả mổ cướp nội tạng sống của những người tu luyện lương thiện cũng biến thành ngành kinh tế phát đạt do nhà nước quản lý. Tà linh cộng sản biến con người thành ma quỷ, biến bác sỹ vốn là thiên sứ áo trắng cứu người trở thành ác ma giết người. Hơn nữa Trung Cộng sớm đã vươn bàn tay ma quỷ của nó đến toàn thế giới, những quốc gia vốn bảo vệ tự do nhân quyền cũng vì lợi ích kinh tế mà giả câm giả điếc trước những tội ác khủng khiếp của nó, dung túng nuông chiều nó.

Nếu nói rằng trong thế kỷ trước dựa vào lý tưởng cộng sản nguyên thủy, tà linh cộng sản đã thành công trong việc dẫn dụ rất nhiều quần chúng phổ thông của giai cấp vô sản, những phần tử trí thức và những thanh niên, thì sau đó, cùng với việc khối cộng sản Đông Âu bị giải thể và các chính quyền cộng sản còn lại phải thay đổi diện mạo bằng cách tiếp thu học hỏi hệ thống quản lý kinh tế của chủ nghĩa tư bản, gần mấy chục năm nay, tà linh cộng sản lại sử dụng những chiêu thức mới, cải biến hình tượng chủ nghĩa cộng sản bạo lực giết người giàu, giúp kẻ nghèo, cưỡng ép ăn chung một nồi cơm lớn, biến thành cướp người giàu chia cho người nghèo, cưỡng chế thu thuế và chế độ phúc lợi cao, phân phối lại tài sản, cao giọng hô hào nâng cao mức sống người dân, cùng nhau sống “cuộc sống tươi đẹp” của chủ nghĩa xã hội, tiếp tục lừa dối con người thế gian.

Tà linh cộng sản gian xảo đáp ứng phương diện con người truy cầu điều tốt đẹp và lôi kéo nó đến sự cuồng tín tôn giáo, dùng cái gọi là truy cầu sự tốt đẹp làm cái cớ để lôi kéo con người ngày càng rời xa những yêu cầu mà Thần đặt ra cho con người, làm biến dị những quan niệm của con người, làm gia tăng ma tính của con người, phạm tội nghiệp thậm chí làm các hành vi xấu trái với đạo lý. Nó khiến con người chìm đắm vào hưởng thụ vật chất, quên đi rằng con người còn có tín ngưỡng vĩnh hằng vượt khỏi thế tục và ý nghĩa đích thực của sinh mệnh; nó cổ động con người đổ máu và mồ hôi nhưng thu về lại là rượu độc và xương trắng. Nó là mồi nhử để dẫn dụ nhân loại đi về phía con đường hủy diệt, con người nếu không tỉnh ngộ sẽ đối mặt với việc bị tà linh đẩy vào kiếp nạn còn đáng sợ hơn nữa. 

Lời kết: Trọng đức thì mới có thể “Giàu mà thái bình”

Truy cầu hạnh phúc là thiên tính của con người. Sự thịnh vượng kinh tế có thể mang tới hạnh phúc cho nhân loại, nhưng kinh tế không tồn tại độc lập. Nếu con đường phát triển kinh tế đi ngược với ước thúc đạo đức thì sẽ dẫn đến tai họa về kinh tế. Khi nền tảng đạo đức bị phá hoại thì sự sung túc về kinh tế vừa không thể mang lại cho con người hạnh phúc, cũng không thể lâu bền, mà càng mau chóng dẫn đến tai họa lớn hơn.

“Nhân dân nhật báo” thừa nhận trong báo cáo năm 2010 rằng mặc dù kinh tế tăng trưởng nhưng chỉ số hạnh phúc của người dân vẫn giảm xuống hàng năm. Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, nhưng hiện trạng hiện nay của Trung Quốc là tham nhũng hoành hành, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, thực phẩm độc hại tràn lan, con người mất đi cảm giác an toàn trong cuộc sống. Tài sản tăng trưởng và đạo đức trượt dốc, cùng với đó là cảm giác hạnh phúc cũng trượt dốc theo.

Điều này phản ánh sự khiếm khuyết của kinh tế học chủ nghĩa cộng sản. Con người không chỉ cần có vật chất mà còn cần có tinh thần. Khi con người đến thế gian, Thần đã an bài cho con người con đường sinh sống. Người Trung Quốc có câu “nhất ẩm nhất trác, mộ phi tiền định” (một miếng ăn, một ngụm uống đều là đã được định trước), những người phương Tây tín Thần vẫn luôn cầu nguyện trước khi ăn, cảm tạ Thần đã ban cho mình thức ăn. Người tín Thần biết rằng tài sản của con người là ân điển của Thần ban cho, cho nên thường mang tâm khiêm tốn và cảm ơn, vì thế mà “biết đủ thường vui”.

Khi con tàu Titanic bị chìm, nhà tỷ phủ Astor đệ tứ (John Jacop Astor IV) cũng ở trên thuyền, tiền của ông có trong ngân hàng đủ để đóng được 30 chiếc tàu như tàu Titanic. Nhưng khi đối mặt với tai nạn trên biển, ông đã lựa chọn tuân theo nguyên tắc đạo đức và bảo vệ phụ nữ và trẻ nhỏ, ông đã nhường lại vị trí của mình cho hai đứa trẻ đang sợ hãi. [25] Cùng lúc đó trên tàu, Isidor Straus đối tác của công ty Macys cũng nói: “Tôi nhất quyết không lên xuồng cứu hộ trước những người đàn ông khác”. Vợ của ông cũng nhất mực từ chối lên xuồng cứu hộ. Cô nhường vị trí của mình trên xuồng cứu hộ cho Ellen Bird người hầu nữ mới thuê của mình, và lựa chọn cùng chồng của mình vượt qua thời khắc cuối cùng. [26]

Khi đối diện với cám dỗ vào việc giữ lại khối tài sản khổng lồ và sự bảo toàn tính mệnh, những nhà tỷ phú này đã lựa chọn tuân thủ giá trị truyền thống. Lựa chọn đạo nghĩa của họ đã tỏa ánh hào quang rực rỡ của nhân cách con người và văn minh nhân loại: nhân cách cao thượng còn có giá trị cao hơn tính mệnh và của cải.

Ông Lý Hồng Chí, nhà sáng lập Pháp Luân Đại Pháp đã viết: “Dân giàu là cái đạo của vua quan, hạ mình vì tiền là hạ sách. Giàu mà vô đức sẽ nguy hại chúng sinh, giàu mà có đức là chỗ mọi người mong mỏi, vậy nên giàu là không thể không tuyên [dương] đức.

Đức là tích từ đời trước; vua, quan, phú, quý thảy đều từ đức mà ra, vô đức thì chẳng được gì, mất đức sẽ mất hết. Vậy nên kẻ mưu quyền kẻ cầu tài ắt phải tích đức, chịu khổ hành thiện là có thể tích đức từ quần chúng. Mà muốn được thế ắt phải hiểu việc nhân quả, minh tỏ điều ấy thì có thể tự kiềm chế cái tâm của quan và dân, thiên hạ giàu có mà thái bình.” [27]

Nếu mọi người có thể nhìn nhận của cải và cuộc sống bằng tâm thái như vậy thì sẽ giảm thiểu rất nhiều những vấn đề kinh tế gây ra do sự tham lam, lười biếng, đố kỵ của con người. Nếu con người có thể ức chế dục vọng cá nhân thì tà thuyết của chủ nghĩa cộng sản sẽ không thể mê hoặc được tâm của con người. Đạo đức cao thượng của con người sẽ được Thần phúc báo, thiên hạ giàu có, lòng người bình lặng, xã hội an định, đó mới là đời sống kinh tế mà con người nên có.

Tà linh cộng sản đã an bài chặt chẽ tất cả các phương diện để hủy diệt nhân loại, lĩnh vực kinh tế chỉ là một trong những phương diện đó. Nhân loại muốn thoát khỏi sự khống chế của tà linh cộng sản thì cần phải nhận thức rõ âm mưu của nó, thấy rõ những lời lừa gạt, dối trá của nó, không ôm giữ bất cứ ảo tưởng nào về nó, đồng thời quay trở về đạo đức truyền thống, trọng đức hướng thiện. Nếu có thể làm được như vậy thì nhân loại sẽ đón nhận một tương lai hạnh phúc, phồn vinh lâu dài, một thời kỳ thịnh vượng thái bình thực sự, nền văn minh thế giới cũng sẽ bước sang một chương mới rực rỡ, huy hoàng.

*********

Tài liệu tham khảo:[1] 「United States Declaration of Independence/Tuyên ngôn độc lập Mỹ,

 http://www.ushistory.org/declaration/document/.

[2] Karl Marx and Friedrich Engels, 「Manifesto of the Communist Party/Tuyên ngôn Đảng cộng sản,

Tuyển tập Marx/Engels, tập 1 (Moscow: Nộp lưu chiểu 1969).

[3] Fred Schwartz và David A. Noebel, You Can Trust the Communists… to Be Communists/Bạn có thể tin rằng những người cộng sản vẫn là những người cộng sản (Socialists and Progressives too) (Manitou Springs, CO: Christian Anti-Communism Crusade, 2010), 43-45.

[4] F. A. Hayek, Phùng Khắc Lợi và Hồ Tấn Hoa dịch: 《Sự tự phụ chí mạng: Sai lầm của chủ nghĩa xã hội》(Bắc kinh: Nhà xuất bản khoa học – xã hội Trung Quốc, 2012)

[5] Thomas Sowell, Intellectuals and Society, Revised and Expanded Edition/ Trí thức và xã hội, Bản sửa đổi và bổ sung (New York: Basic Books, 2012), chương 2.

[6] F. A. Hayek. 「The Use of Knowledge in Society,

The American Economic Review/”Tác dụng của kiến thức trong xã hội” đánh giá kinh tế Mỹ, Tập 35, Chương 4. (9/1945), 519-530.

[7] [Nước Áo] Ludwig von Mises, Vương Kiện Dân, Phùng Khắc Lợi, Thôi Thọ Nghĩa dịch: 《Phân tích kinh tế – xã hội học của chủ nghĩa xã hội》(Bắc Kinh: Nhà xuất bản khoa học xã hội Trung Quốc,2008), Lời của người dịch, 5-6.

[8] Thạch Sơn:〈Gian Nan cải cách Doanh nghiệp quốc doanh Trung Quốc〉, Đài châu Á tự do, 22/9/2015, https://www.rfa.org/mandarin/yataibaodao/jingmao/xql-09222015103826.html; Tần Vũ Phi: “Ngân hàng Societe Generale: Những công ty thây ma đã trói buộc nền kinh tế Trung Quốc”, Báo Đại Kỷ Nguyên, ngày 25/5/2016 http://www.epochtimes.com/b5/16/5/24/n7927577.htm.

[9] John Kenneth Galbraith, The Good Society: The Humane Agenda (Boston, MA: Houghton Mifflin Co., 1996), 59-60; [Anh Quốc] tác giả Carl Popper,Lục Hoành Đẳng dịch:《Giải thoát xã hội khỏi những kẻ địch của nó》(Bắc Kinh:Nhà xuất bản khoa học – xã hội Trung Quốc, 1999).

[10] Rothschild, Michael, Bionomics: Economy as Business Ecosystem/ Kinh tế như hệ sinh thái kinh doanh (Washington, D.C.: Beard Books, 1990), 115.

[11] Mao Trạch Đông:〈Báo cáo khảo sát phong trào nông dân Hồ Nam〉《Tuyển tập Mao Trạch Đông》Tập 1(Thư viện Chủ nghĩa Marx tiếng Trung).

[12] Adam Smith, The Theory of Moral Sentiments/ Lý thuyết về tình cảm đạo đức (Philadelphia: Anthony Finley, J. Maxwell Printer, 1817).

[13] Lawrence Kudlow, American Abundance: The New Economic and Moral Prosperity/  (New York: HarperCollins Publishers, 1997).

[14] Thomas Sowell, Economic Facts and Fallacies (New York: Basic Books, 2008), 174.

[15] Engels:〈Liên minh công nhân〉,《Marx-Engels toàn tập》Tập 19(Thư viện chủ nghĩa Marx Tiếng Trung).

[16]「Lenin,「Lý luận công đoàn, tình thế trước mắt và sai lầm của đồng chí Trotsky」,《Lenin toàn tập》Tập 40.

[17] Lữ Gia Dân:《Lịch sử học thuyết công đoàn của Lenin》,Nhà xuất bản nhân dân Liêu Ninh,năm 1987.

[18] James Sherk, 「What Unions Do: How Labor Unions Affect Jobs and the Economy/ Công đoàn làm gì: Công đoàn lao động ảnh hưởng đến công việc và nền kinh tế như thế nào,

Heritage Foundation Website, 21/5/2009, https://www.heritage.org/jobs-and-labor/report/what-unions-do-how-labor-unions-affect-jobs-and-the-economy. 

[19] Edwin J. Feulner, 「Taking Down Twinkies,

Heritage Foundation Website, November 19, 2012, https://www.heritage.org/jobs-and-labor/commentary/taking-down-twinkies.

[20] James Sherk, 「What Unions Do: How Labor Unions Affect Jobs and the Economy/ Công đoàn làm gì: Công đoàn lao động ảnh hưởng đến công việc và nền kinh tế như thế nào,

Heritage Foundation Website, 21/5/2009, https://www.heritage.org/jobs-and-labor/report/what-unions-do-how-labor-unions-affect-jobs-and-the-economy.

[21] Như trên.

[22] Như trên.

[23]  Steve Inskeep, “Solidarity for Sale: Corruption in Labor Unions,” National Public Radio, February 6, 2007, https://www.npr.org/templates/story/story.php?storyId=5181842.

[24] Như trên.

[25]  Children on the Titanic (a documentary, 2014).

[26] Isidor Straus, Autobiography of Isidor Straus (The Straus Historical Society, 2011), 168–176.

[27] Ông Lý Hồng Chí:〈Giàu mà có đức〉,《Tinh tấn yếu chỉ》, http://vi.falundafa.org/book/jjyz_html/jjyz.html#Heading__4139

Bản tiếng Hán: http://www.epochtimes.com/gb/18/6/5/n10457370.htm

Bản tiếng Anh: https://www.theepochtimes.com/chapter-nine-the-communist-economic-trap-part-ii_2605465.html

Bản dịch có thể được chỉnh sửa trong tương lai để sát hơn với nguyên tác.

Ngày đăng: 4-09-2019